Vấn đề nuôi trồng thủy sản, bảo tồn đa dạng sinh học đang là những
vấn đề trọng tâm và diễn ra ngay trong nội tại hệ sinh thái vùng triều. Vì vậy,
những đòi hỏi cấp bách về một bộ số liệu tin cậy, có cơ sở khoa học về tài
nguyên và môi trường vùng triều vịnh Bắc Bộ là vấn đề cần thiết nghiên cứu nhằm
phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội vùng ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ.
Đề
tài "Nghiên cứu hiện trạng môi trường, biến động nguồn lợi, đa dạng sinh
học hệ sinh thái vùng triều ven biển miền Bắc Việt Nam (từ Quảng Bình trở ra),
đề xuất mô hình khai thác, nuôi trồng, bảo tồn và quản lý bền vững"
(KC.09.07/11-15) do PGS.TS. Đỗ Công Thung, Viện Tài nguyên và Môi trường biển
làm chủ nhiệm đã đáp ứng được đòi hỏi đó nhằm bảo vệ môi trường vùng triều vịnh
Bắc Bộ, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Tiềm
năng hệ sinh thái vùng triều
Vùng
triều là cầu nối giữa lục địa với biển khơi. Do vậy, tất cả các hoạt động kinh
tế xã hội trên đất liền hay dưới biển khơi đều tác động đến vùng triều và đổi
lại vùng triều lại tác động hỗ trợ các hoạt động này. Vùng triều còn là bức
tường che chắn cho phần lục địa, tránh đi mọi tai biến thời tiết, xâm nhập mặn
hay xử lý các chất ô nhiễm từ đất liền thải ra.
Hệ
sinh thái vùng triều là một hệ sinh thái đặc trưng của dải ven biển Việt Nam.
Hầu như tất cả các hoạt động kinh tế xã hội dải ven bờ Việt Nam đều có liên
quan mật thiết đến hệ sinh thái vùng triều. Nghiên cứu hệ sinh thái vùng triều
ở nước ta được tiến hành ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Các
nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng lớn của hệ sinh thái vùng triều nhờ vào các đặc
trưng và điều kiện tự nhiên, cấu trúc, thành phần các nhân tố vô sinh và hữu
sinh, với tiềm năng tài nguyên, môi trường lớn đã được nhân dân ta khai thác,
sử dụng lâu đời.
PGS.
TS. Đỗ Công Thung, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Chủ nhiệm Đề tài cho
biết, Việt Nam đã có những cố gắng vượt bậc trong nghiên cứu hệ sinh thái vùng
triều và đã đạt được những kết quả đáng trân trọng như: đã xác định 7 dạng sinh
cảnh cơ bản của vùng triều; đánh giá các đặc trưng sinh thái vùng triều;
bước đầu xác định tiềm năng có thể thu được từ hệ sinh thái vùng triều…Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ có được những đánh giá chung về đặc
trưng sinh thái vùng triều và tập trung chủ yếu vào vùng triều cửa sông mà không
có được các nghiên cứu toàn diện cho từng kiểu sinh cảnh như bãi triều lầy, các
cồn cát, các bãi bồi, bãi cát…Vì vậy, vấn đề tiềm năng nguồn lợi vùng triều,
đặc biệt là các giá trị nổi bật về tài nguyên và môi trường chưa được đánh giá
đầy đủ.
“So
với yêu cầu thực tế phát triển kinh tế xã hội trên cả dải ven bờ Việt Nam nói
chung và vùng triều nói riêng thì bộ các số liệu khoa học có được từ khoảng gần
30 năm trước đây chỉ có giá trị là số liệu nền để tham khảo mà không thể áp
dụng làm cơ sở khoa học để hoạch định kế hoạch sử dụng hợp lý hệ sinh thái vùng
triều cho hiện tại với tầm nhìn từ 10 đến 20 năm tiếp theo”, PGS.TS. Đỗ Công
Thung cho hay.
Các nhà khoa học lặn lấy mẫu nghiên cứu vùng bãi triều ở huyện
Giao Thủy (tỉnh Nam Định)
Do
vậy, việc triển khai Đề tài KC.09.07/11-15 nhằm bảo vệ môi trường vùng triều
vịnh Bắc Bộ, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Theo đó, mục tiêu đề tài hướng
đến là xác định các giá trị nổi bật về tài nguyên và môi trường hệ sinh thái
vùng triều ven biển miền Bắc. Đánh giá mức độ suy thoái đa dạng sinh học vùng
triều trong mối tương quan với mức độ ô nhiễm môi trường và hiện trạng khai
thác, nuôi trồng thuỷ sản và du lịch. Đồng thời, xác định được mô hình nuôi
trồng, bảo tồn và khai thác quản lý bền vững, không chỉ có ý nghĩa về khoa học
mà còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn và góp phần phát triển kinh tế biển
vùng ven bờ Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Ứng
dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn
Để
thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát chi tiết tại 8 địa điểm
nằm dọc dải vùng triều từ Trà Cổ (Quảng Ninh ) đến Lệ Thủy (Quảng Bình). Tổng
số mẫu thu được và phân tích là 5503 mẫu về tài nguyên và môi trường vùng
triều. Kết quả phân tích được tổng hợp trong 73 báo cáo thuộc các nhóm chuyên
đề thủy hóa, trầm tích và tài nguyên sinh vật. Qua ba năm thực hiện (từ 2012 –
2015) đề tài đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận đó là đã xác định được
đặc điểm môi trường nước, trầm tích vùng triều ven vịnh Bắc Bộ, hiện trạng đa
dạng sinh học hệ sinh thái vùng triều miền Bắc Việt Nam… Cụ thể:
Hệ
sinh thái vùng triều từ Mũi Ngọc (Trà Cổ ) đến Ngư Thủy, Lệ Thủy Quảng Bình có
diện tích 449.323 ha, gồm 10 dạng sinh cảnh khác nhau như thảm cỏ biển,
thảm thực vật ngập mặn, bãi cát biển, bãi triều rạn đá, bãi triều lầy, cồn cát,
bãi bồi cửa sông, đầm nuôi, đồng muối, vùng nước nông ven bờ. Sinh cảnh thực
vật ngập mặn và các bãi triều thường bị biến động mạnh nhất. Trầm tích vùng
triều Tây vịnh Bắc Bộ có chất lượng tốt, thể hiện tính khử mạnh ở tất cả các
địa điểm khảo sát; Chất dinh dưỡng, kim loại nặng, hóa chất bảo vệ thực vật
trong trầm tích đều nằm trong ngưỡng an toàn. Duy nhất hàm lượng dầu mỡ trong
trầm tích là vượt giới hạn cho phép ở 7/8 địa điểm khảo sát...
Về
đa dạng sinh học hệ sinh thái vùng triều, tổng số 2949 loài sinh vật phân bố.
Nhiều nhất là động vật đáy 1146 loài, tiếp theo cá biển, thực vật phù du, chim
biển, thấp nhất là cỏ biển 5 loài – 0,5 %. Trong đợt khảo sát này nhóm tác giả
đã chính thức công bố 80 loài san hô mềm và 29 loài hải miên phân bố từ vùng
triều đến độ sâu 6 m nước/0m hải đồ. Các loại có giá trị kinh tế gồm rong biển,
động vật đáy, cá, chưa kể các loài chim, thú và bò sát biển. Các giá trị nổi
bật của hệ sinh thái vùng triều phía Tây vịnh Bắc Bộ thể hiện qua giá trị về
môi trường, đa dạng sinh học và nguồn lợi các giá trị đặc biệt khác.
Đánh
giá mức độ suy giảm đa dạng sinh học, suy giảm nguồn lợi liên quan đến ô nhiễm
môi trường và đa dạng sinh học, PGS.TS. Đỗ Công Thung cho biết, sự suy giảm các
sinh cảnh gồm biến đổi diện tích các bãi bồi, rừng ngập mặn thành đầm nuôi, Giá
trị cảnh quan bị suy giảm do các ao nuôi ngày càng bị nhiễm bẩn; dinh dưỡng
khoáng đã vượt giới hạn cho phép. Do đó, nguồn lợi sinh vật vùng triều cũng suy
giảm tỷ lệ với sự suy giảm của đa dạng sinh học. Thể hiện qua thu hẹp diện tích
phân bố của các đặc sản, loài ngán giảm diện tích 50%, suy giảm 75 % sản lượng.
Hiện tượng thay đổi cấu trúc nguồn lợi và chất lượng sản phẩm đặc sản cũng đã
được xác định. Đối tượng nuôi có xu thế thay các loài có giá trị thấp vào vị
trí các loài bản địa có giá trị cao.
Mức
độ ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng như ô nhiễm dầu, ô nhiễm hữu cơ, thuốc
trừ sâu ở quy mô lớn. Kết quả đánh giá có tới tổng số 75 % diện tích hệ sinh
thái vùng triều bị ô nhiễm từ mức có nguy cơ bị ô nhiễm đến ô nhiễm, chỉ có Trà
Cổ, Tiên Yên và Quảng Bình là còn ở mức độ bình thường.
Đặc
biệt, Đề tài đã thành công trong việc xây dựng mô hình cấp tỉnh về nuôi trồng,
bảo tồn và khai thác bền vững nguồn lợi thân mềm vùng bãi bồi Xuân thủy, Nam
Định. Cụ thể, sau 15 tháng Phòng Nuôi trồng thủy sản đã ứng dụng kết quả nghiên
cứu của Đề tài để xây dựng mô hình nuôi ngao tạo Giao Thủy, Nam Định thành
công. Những tác động về mặt kỹ thuật từ Đề tài đã góp phần làm tăng tỷ lệ sống,
đẩy nhanh tốc độ sinh trưởng của ngao nuôi. Ước tính giá trị lợi nhuận cho 1 ha
nuôi ngao trắng đạt 160 triệu và ngao dầu là 80 triệu đồng.
“Qua
kết quả của mô hình bước đầu đã có cơ sở khoa học giải thích nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng ngao chết trong thời gian qua tại Nam Định và giúp người nuôi có
hướng phát triển bến vững hơn trong những năm tiếp theo. Để đảm bảo độ tin cậy
và thuyết phục hơn trong thời gian tới cần tiếp tục triển khai xây dựng nhiều
mô hình ứng dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài KC09.07/11-15 để làm cơ sở khoa
học nhằm tuyên truyền đến các hộ nuôi để nhân rộng mô hình ra diện rộng”,
PGS.TS. Đỗ Công Thung cho hay.
Mô
hình trên đã cho phép điều chỉnh mô hình truyền thống qua các tiêu chí chọn và
thiết kế bãi nuôi; kỹ thuật chọn giống, thả giống và chăm sóc. Từ thành công
ngày, nhóm tác giả đã đề xuất các mô hình khai thác, nuôi trồng, bảo tồn và
quản lý bền vững gồm: mô hình cân bằng lợi ích, mô hình nghề cá tổng hợp, mô
hình bảo tồn tự nhiên các khu bảo tồn rừng ngập mặn, cỏ biển và bãi giống; mô
hình quản lý thông qua thiết lập cơ sở dữ liệu hệ sinh thái vùng triều và quản
lý dựa váo mô hình đồng quản lý.
Kết
quả nghiên cứu đề tài KC.09.07/11-15 đạt được đã rút ra những giá trị cơ bản
phục vụ cho việc định hướng đề xuất các mô hình khai thác, nuôi trồng, bảo tồn
và quản lý bền vững hệ sinh thái vùng triều. Các mô hình nuôi trồng, khai thác
hải sản hoặc quản lý bền vững góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo
cho người dân..
Bài,
ảnh: Phương Nga-
truyenthongkhoahoc
0 nhận xét:
Post a Comment