Trong bài báo này, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá thực
trạng, chỉ rõ nguyên nhân gây ra xói lở, bồi tụ, diễn biến dải ven biển từ
thành phố Hồ Chí Minh đến Kiên Giang. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
hạn chế những diễn biến bất lợi và thúc đẩy những diễn biến có lợi nhằm phát
triển bền vững kinh tế xã hội của khu vực nghiên cứu
1.
Giới thiệu chung
Dải
ven biển Nam Bộ từ Tp. Hồ Chí Minh đến Kiên Giang với chiều dài bờ biển khoảng
774 km, là vùng đất đa dạng về sinh học, với nhiều ngành nghề phát triển như:
nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, diêm nghiệp và du lịch… Đây thật sự là vùng
đất có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã
hội. Qua điều tra, thống kê các tài liệu lịch sử, tổng hợp kết quả của
các nghiên cứu trước (Trần Như Hối và nnk, 2003; Phan
Anh Tuấn, 2004; Trịnh Thế Hiếu và nnk,
2005), cho thấy biến động hình thái dải ven biển khu vực này hết sức
phức tạp. Ở một số đoạn bờ biển như: bờ biển Gò Công tỉnh Tiền
Giang, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre, Hiệp Thạnh tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Châu
tỉnh Sóc Trăng, Gành Hào tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, xói lở diễn ra khá
nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp đến sự an toàn của các tuyến đê biển
vốn được xem là lá chắn hữu hiệu trước những tác động bất lợi từ biển.
Trong
bài báo này, chúng tôi sẽ trình bày một số kết quả nghiên cứu về
diễn biến xói lở, bồi tụ bờ biển các tỉnh từ Tp. Hồ Chí Minh đến
Kiên Giang, phân tích đánh giá các nguyên nhân và cơ chế của sự biến
đổi này. Trên cơ sở đó sẽ kiến nghị một số giải pháp nhằm giảm
nhẹ các tác động bất lợi do xói lở và bồi tụ bờ biển gây ra và thúc
đẩy những diễn biến có lợi diễn ra nhanh hơn.
2.
Diễn biến xói bồi bờ biển
2.1. Tài
liệu và phương pháp nghiên cứu
Để
nghiên cứu xác định diễn biến đường bờ qua các giai đoạn thường sử dụng phương
pháp chồng ghép bản đồ và ảnh viễn thám đây là phương pháp đã được nhiều nước
trên thế giới ứng dụng. Nội dung thực hiện của phương pháp này là chồng ghép
các bản đồ đo đạc hiện có cùng với không ảnh, ảnh vệ tinh có được trong các
thời kỳ khác nhau, trên cơ sở đó phân tích sự biến động đường bờ để nhận biết
được khu vực, phạm vi sạt lở, bồi tụ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến
hành điều tra khảo sát thực địa, phỏng vấn người dân địa phương nhằm
kiểm chứng, đánh giá các kết quả thu được từ việc phân tích ảnh vệ
tinh nói riêng cũng như chồng ghép bản đồ nói chung.
Các
tài liệu về bản đồ đo đạc và các ảnh vệ tinh sử dụng trong nghiên cứu này được
trình bày trong bảng sau:
Bảng 1. Các tài liệu sử dụng trong nghiên cứu diễn biến đường bờ
STT
|
Thời
gian
|
Loại
dữ liệu
|
Định
dạng
|
Tỷ
lệ/Độ phân giải
|
1
|
1965
|
Bản
đồ địa hình
|
Vector
|
1/50.000
|
2
|
1989
|
Ảnh vệ tinh Landsat TM
|
Raster
|
15m
x 15m
|
3
|
2001
|
Ảnh vệ tinh Landsat ETM
|
Raster
|
15m
x 15m
|
4
|
2008
|
Ảnh vệ tinh Landsat ETM
|
Raster
|
15m
x 15m
|
5
|
2010
|
Ảnh vệ tinh Landsat ETM
|
Raster
|
15m
x 15m
|
Hình 1. Phương pháp chập bản đồ để nghiên cứu biến động đường bờ
2.2. Kết
quả nghiên cứu về diễn biến đường bờ
Kết
quả phân tích cho thấy bờ biển Đông bị chia cắt bởi nhiều cửa sông, quá trình
xói lở bồi tụ diễn ra mạnh mẽ và phức tạp, trong khi bờ biển Tây, quá trình
bồi tụ chiếm ưu thế. Căn cứ vào vị trí địa lý, đơn vị hành chính, chúng tôi
phân chia thành đường bờ biển thành các khu vực như sau:
- Khu
vực ven biển huyện Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh:
Trong
khoảng thời gian từ 1965÷1989, diễn biến bờ biển Cần Giờ diễn ra xói lở bồi tụ
xen kẽ, riêng khu vực mũi Đông Hoà (phía tây), mũi Cần Giờ (phía đông) bị xói
lở mạnh với tốc độ xói lở đạt khoảng 10÷20 m/năm. Sau khi hệ thống công trình
đập mỏ hàn và kè chắn sóng, gây bồi được
xây dựng năm 1995, xói lở bờ biển nơi đây về cơ bản đã được khống chế. Đây là
một trong số ít các công trình bảo vệ bờ biển xây dựng trong những năm qua đạt
mục tiêu chống xói lở tốt, tuy vậy việc trồng lại rừng ngập mặn chưa đạt
hiệu quả cao. Do vậy, rất cần đánh giá và rút kinh nghiệm để có thể tìm ra
giải pháp thích hợp cho các khu vực bị xói lở khác.
-
Khu vực bờ biển huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang:
Đoạn
bờ biển này được giới hạn bởi hai cửa sông Soài Rạp và cửa Tiểu có tổng chiều
dài khoảng 17 km. Trong khoảng thời gian từ năm 1965 ÷ 2010 hiện tượng xói lở
xảy ra trên hầu hết đoạn bờ biển này, tốc độ xói lở khoảng 10 ÷ 30 m/năm tùy
theo vị trí, theo thời gian mức độ xói lở ngày càng nhanh hơn. Hệ quả là rừng
phòng hộ trước tuyến đê biển đã bị thu hẹp dần, cho đến năm 2000 thì đã có trên
3 km thuộc khu vực xã Tân Thành rừng đã hoàn toàn biến mất, biển đã xâm thực
vào đến tận chân đê. Những năm gần đây, tuyến đê xung yếu không có rừng phòng
hộ phải đương đầu trực diện với biển liên tục dài thêm ra, xuất hiện ở những vị
trí mới như tại xã Tân Điền, Kiển Phước, tuyến đê biển ngày càng mất an toàn.
Trong khu vực này, chỉ có khoảng 1500 m bờ biển giáp cửa Tiểu là được bồi tụ
với tốc độ trung bình khoảng 10 ÷ 15 m/năm.
-
Khu vực bờ biển huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang:
Ngược
lại với xu thế diễn biến của bờ biển khu vực Gò Công nói trên, đoạn bờ biển nằm
giữa sông Cửa Tiểu và Cửa Đại được bồi tụ rất mạnh, tốc độ bồi tụ trung bình
vào khoảng trên 100 m/năm, tính từ năm 1965 ÷ 1989 bờ đã được bồi ra khoảng hơn
3 km. Từ năm 1989 đến nay đã xuất hiện cồn nổi phía cửa Tiểu cách đường bờ cũ
khoảng 2.7 km và liên tục phát triển về phía bờ, đến thời điểm hiện tại cồn
nổi gần nối liền với cù lao Tân Phú Đông.
-
Khu vực bờ biển thuộc các huyện Bình Đại và Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
Đoạn
bờ biển nằm kẹp giữa các cửa sông cửa Đại và cửa Hàm Luông, bị chia cắt bởi cửa
sông Ba Lai. Nhìn chung đoạn bờ biển này không bị xâm thực ngọai trừ đoạn bờ
gần cửa Đại, còn lại hầu hết dọc bờ biển được hình thành khá nhiều bãi bồi,
trong đó khu vực cửa Ba Lai có tốc độ bồi mạnh nhất.
Từ
năm 1965÷1989, khoảng 4 km bờ biển từ cửa Đại đến cửa sông Cống Bé bị xói lở
mạnh, tốc độ xói lớn nhất khoảng 20 m/năm. Tốc độ xâm thực khu vực này đã gia
tăng lên khoảng 25 m/năm trong giai đoạn từ 1989 đến nay.
Đoạn
bờ từ cửa sông Cống Bé đến cửa Hàm Luông chủ yếu là bồi tụ, đặc biệt khu vực bờ
nam cửa Ba Lai, tính từ năm 1965÷1989 tại khu vực này bờ biển đã được bồi ra
khoảng 1,2 km, tốc độ lấn biển khoảng 50 m/năm. Từ năm 1989 đến nay thì hoạt
động xói bồi diễn ra xen kẽ tuy nhiên quá trình bồi tụ vẫn chiếm ưu thế, xói
lở chỉ diễn ra ở một vài vị trí với tốc độ khoảng 5-7 m/năm.
-
Khu vực bờ biển tỉnh Trà Vinh:
Nằm
giữa cửa sông Cổ Chiên và cửa Định An (Sông Hậu), dải ven biển tỉnh Trà Vinh có
dạng hình cung với chiều dài trên 50 km. Đây là vùng ngập mặn thường xuyên với
nhiều sông rạch đổ ra biển tạo ưu thế lớn trong việc nuôi trồng thủy sản và
phát triển rừng ngập mặn của địa phương.
Đoạn
bờ từ cửa Cung Hầu đến ấp Dân Thành, huyện Duyên Hải dài khoảng 25 km thường
xuyên bị biển xâm thực. Từ năm 1965-1989 biển đã lấn vào đất liền khoảng hơn
200 m, trong đó có hai khu vực sạt lở mạnh là bờ biển Hiệp Thạnh dài khoảng 4
km bị sạt lở với tốc độ 8-10 m/năm, và khu vực bờ biển Nhà Mát, cách cửa Cung
Hầu khoảng 8 km, bị sạt lở với tốc độ khoảng 15-20 m/năm. Trong giai đoạn
1989-2001, đoạn bờ này tiếp tục bị sạt lở, tốc độ dịch chuyển đường bờ khoảng
10 m/năm, trong đó khu vực bờ biển Hiệp Thạnh có tốc độ sạt lở mạnh hơn rất
nhiều so với giai đoạn trước, vào khoảng hơn 20 m/năm.
Đoạn
bờ từ ấp Dân Thành đến cửa Định An chủ yếu được bồi tụ, tốc độ bồi lớn
nhất tại khu vực bờ bắc cửa Định An khoảng 40m/năm. Bên cạnh đó có một vài vị
trí bị xói lở với mức độ nhẹ vào khoảng 3-5 m/năm. Riêng tại vị trí bờ bắc cửa
Định An dài khoảng hơn 2 km được bồi lấp khá mạnh với tốc độ khoảng 50 m/năm.
-
Khu vực bờ biển tỉnh Sóc Trăng từ cù Lao Dung, cửa Mỹ Thanh tỉnh Sóc trăng
đến Bạc Liêu:
Bờ
biển tương đối thẳng, quá trình diễn biến đường bờ khá phức tạp, xói bồi xen kẽ
nhau. Từ năm 1965 đến 1989, đoạn có sự biến động đường bờ mạnh nhất là từ
cửa Mỹ Thanh kéo dài về phía nam khoảng 17 km, vị trí bồi lớn nhất vào khoảng
1.300 m, vị trí lở lớn nhất khoảng 400 m. Ở đoạn bờ kế tiếp thuộc xã Vĩnh Bình
dài khoảng 20 km, hiện tượng bồi lấp là chủ yếu nhưng với tốc độ chậm chỉ
khoảng 5 m/năm, riêng đoạn bờ thuộc ấp Biển Trên thị trấn Vĩnh Châu dài khoảng
1,5km được bồi lấp với tốc độ bồi vào khoảng 15 m/năm. Đoạn bờ kế tiếp cho đến
giáp ranh Bạc Liêu chủ yếu bị biển xâm thực, với chỗ xói lớn nhất là 320m, tốc
độ vào khoảng hơn 10 m/năm.
Từ
năm 1989 đến 2008, đoạn bờ từ thị trấn Vĩnh Châu đến giáp ranh tỉnh Bạc Liêu
lại bị xói lở, với tốc độ khoảng 10m/ năm, đường bờ bị biển lấn vào khoảng 250
m.
-
Khu vực bờ biển tỉnh Bạc Liêu:
Với
chiều dài khoảng 56 km, dải ven biển thuộc tỉnh Bạc Liêu có cao độ phổ biến từ
1,0 - 1,5m, ven bờ có các giồng cát cao độ từ 1,5 - 3,0m. Nhìn chung đường bờ
biển ở Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm 1965- 2008 có xu thế bồi lấn ra biển,
ngoại trừ hai khu vực bị xói lở là đoạn bờ giáp ranh tỉnh Sóc Trăng dài khoảng
6km, và đoạn bờ khu vực cửa sông Gành Hào (giáp ranh tỉnh Cà Mau) dài khoảng 9
km.
-
Khu vực bờ biển tỉnh Cà Mau:
Dải
ven biển tỉnh Cà Mau có chiều dài khoảng 254 km được chia làm 2 đoạn. Đoạn từ
sông Gành Hào đến mũi Cà Mau dài khoảng 100 km giáp biển Đông, đường bờ có dạng
hình răng cưa. Trong giai đoạn từ năm 1965 đến nay nhìn chung đoạn bờ nay
thương bị xói lở, trong đó đáng chú ý là đoạn bờ từ cửa sông Đầm Dơi đến cửa
Rạch Gốc dài khoảng 40km có tốc độ dịch chuyển đường bờ khá mạnh khoảng 35
m/năm, từ năm 1965 ÷ 2008 đường bờ biển đoạn này đã bị biển lấn vào khoảng 1,4
km.
Đoạn
bờ từ Mũi Cà Mau đến rạch Tiểu Dừa dài khoảng 154 km phái biển Tây, hoạt động
xói bồi trong giai đoạn 1965-2001 diễn ra xen kẽ. Tuy nhiên hoạt động bồi tụ
chiếm ưu thế, xói lở diễn ra chủ yếu tại vị trí các cửa sông. Khu vực có tốc độ
bồi tụ mạnh nhất là mũi Cà Mau, từ năm 1965-2001 mũi Cà Mau được bồi ra khoảng
3 km, tốc độ bồi bình quân khoảng 80 m/năm.
-
Khu vực bờ biển tỉnh Kiên Giang:
Dải
bờ biển Kiên Giang chịu ảnh hưởng của thủy triều biển Tây và vịnh Thái Lan.
Chế độ thủy hải văn biển Tây tạo ra hình thái dải ven biển Kiên Giang khá ổn
định và có xu thế bồi lắng là chính. Tính từ năm 1965 ÷ 2008 bờ biển Kiên Giang
được bồi lấp từ 5 – 10 m/năm, trong đó vị trí bồi lớn nhất là đoạn bờ khu
vực giáp ranh giữa huyện An Minh và An Biên, trong vòng 43 năm (từ năm 1965 ÷
2008) ở khu vực này đã được bồi ra khoảng 2 km, tốc độ bồi gần 50 m/năm. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây đã xảy ra tình trạng xói lở bờ biển uy hiếp đến
sự an toàn của tuyến đê biển ở một số khu vực như: khu vực mũi Rảnh thuộc bờ
Nam sông Cái Lớn biển lấn vào khoảng 200 m, khu vực Vàm Rầy huyện Hòn Đất biển
đã tiến vào đất liền khoảng hơn 200 m gây sạt lở mái đê trong khoảng từ năm
2001 ÷ 2008.
3. Nguyên nhân và cơ chế xói lở bồi tụ
Xói
lở bồi tụ dải ven biển là một quá trình tự nhiên phức tạp, là hệ quả tương tác
giữa rất nhiều yếu tố. Hình 2 trình bày những yếu tố gây ra xói lở bồi tụ bờ
biển, trong đó các yếu tố tác động đến quá trình xói lở bồi tụ bờ
biển được phân làm hai nhóm: các yếu tố tự nhiên và tác động của
con người. Việc đánh giá xác định nguyên nhân xói bồi phải xem xét đầy đủ trên
các phương diện như sự vận chuyển bùn cát dưới tác động của sóng, gió và dòng
triều; các tác động của con người trong phạm vi dọc bờ biển, trên các lưu vực
sông, theo không gian cũng như thời gian.
Hình 2. Sơ đồ phức hợp nguyên nhân của xói lở, bồi tụ bờ biển
(chỉnh sửa từ Gegar, 2007)
Những
nhân tố tự nhiên quan trọng không thể bỏ qua trong việc hiểu và nhận diện vấn
đề xói lở bờ biển bao gồm: cấu tạo vùng bờ và hướng đường bờ, tác động của gió,
sóng, thủy triều, ảnh hưởng của sông Mekong và hệ thống sông Sài Gòn – Đồng
Nai, cũng như vai trò của rừng ngập mặn. Bên cạnh các yếu tố tự nhiên, các
tác động do con người tạo ra cũng cần được xem xét theo không gian cũng như
theo thời gian. Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt đề cập, phân tích và thảo luận
một số yếu tố được cho là những nguyên nhân chính tác động đến quá trình xói lở
bồi tụ bờ ven biển khu vực Nam Bộ.
3.1. Ảnh
hưởng của cấu tạo vùng bờ và hướng đường bờ
Bờ
biển từ Tp. Hồ Chí Minh đến Kiên Giang được cấu tạo bởi trầm tích phù sa bở rời
rất trẻ (tuổi Holoxen hiện đại – Pleistoxen muộn) với thành phần chủ yếu là bùn
sét màu nâu, bùn sét màu nâu chứa cát có lẫn vụn xác sinh thực vật. Bờ biển cấu
tạo bởi đá rắn chắc chỉ tập trung ở khu vực Hòn Đất, Kiên Giang (Lap &
nnk, 2000; Trần Như Hối & nnk, 2003; Oanh & nnk, 2002;
Nguyễn Thế Hiếu & nnk, 2005, Xue & nnk, 2010). Cấu tạo địa chất như
trên, chỉ cần động lực vừa phải của sóng gió cũng đủ phá vỡ kết cấu bề mặt bờ
nếu như thảm thực phủ bề mặt không có hay thưa thớt. Do thành phần hạt rất mịn
nên phần lớn vật liệu bờ sau khi bị phá vỡ sẽ chuyển thành bùn cát lơ lửng, dễ
dàng bị sóng và dòng chảy ven bờ chuyển đi nơi khác. Thực tế tại các khu vực
sạt lở mạnh như khu vực Gò Công Đông (tỉnh Tiền Giang), Vĩnh Châu (tỉnh Sóc
Trăng) cho thấy, khi đai rừng phòng hộ tiên phong ngoài cùng bị suy thoái thì
quá trình xói lở sẽ diễn ra. Khi đó, nếu do điều kiện môi trường thay đổi cũng
như không gian bị hạn chế mà đới rừng tiên phong không tái sinh được thì xói lở
sẽ làm suy thoái tiếp các đới rừng kế tiếp. Quá trình xói lở bờ - suy thoái
rừng như vậy sẽ diễn ra liên tục, với tốc độ ngày càng nhanh.
Bên
cạnh cấu tạo vùng bờ thì hướng đường bờ cũng là yếu tố quyết định để quá trình
bồi tụ hay xói lở diễn ra. Thực tế cho thấy tại các đoạn đường bờ có phương
trực diện với hướng của gió mùa Đông Bắc (Gò Công Đông, nam cửa Tiểu, nam cửa
Đại, nam cửa Hàm Luông, Gành Hào) quá trình xói lở diễn ra rất mạnh, những nơi
có đương bờ được che kín phần nào với hướng gió trên thì thường được bồi tụ
hoặc chỉ bị xói lở nhẹ.
3.2. Tác
động của gió
Khu
vực ĐBSCL nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nên hàng năm vùng
nghiên cứu bị điều tiết bới gió mùa với các hướng chính là Đông Bắc và Tây Nam.
Gió là yếu tố ngoại sinh chính tạo ra sóng, ngoài ra chế độ gió mùa nói
trên cũng tạo ra các dòng hải lưu và dòng chảy ven bờ trái chiều
nhau: dòng chảy mùa hè (gió mùa Tây Nam) đi từ Nam lên Bắc, và dòng
chảy mùa đông (gió mùa Đông Bắc) hướng từ Bắc xuống Nam (xem Hình 3).
Bảng 2. Phân bố gió mùa hàng năm
Gió
mùa Đông Bắc thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Gió thường thổi
theo hướng: Đông Bắc, Đông và Đông Nam, trong đó chủ yếu là hướng Đông và Đông
Bắc. Hình 4 thể hiện hoa gió ngoài khơi biển Gò Công theo kết quả từ mô hình
khí tượng toàn cầu CFSR của NOAA (National Oceanic and Atmospheric
Administration) từ năm 2000 - 2008.
Hình 3. Dòng hải lưu mùa đông và dòng hải lưu mùa hè trên
biển Đông. Mũi tên biểu thị hướng dòng chảy trung bình, các con số
biểu thị tốc độ dòng chảy trung bình theo đơn vị kn (1 kn ≈ 0.51 m/s)
(Nguồn: U.S. Naval Occeanographic Office, 1957)
Theo
đó vận tốc gió trung bình đạt khoảng 8-10 m/s, cao nhất là từ 15-16 m/s. Với
tần suất xuất hiện vượt trội, tốc độ gió cũng là lớn hơn nhiều so với các hướng
khác, hướng gió gần như trực diện với đường bờ biển mở phía biển Đông,
nên có thể xác định gió mùa Đông Bắc là hướng gió chi phối chính đến quá trình
xói lở của bờ biển trong khu vực. Sóng gây ra bởi gió mùa Đông Bắc đào xới
phần lớn bùn cát được bồi tụ trong mùa gió Tây Nam cũng như bào mòn các vách bờ
không được bảo vệ bởi thảm thực vật, tạo ra dòng chảy ven bờ, cùng với dòng
triều và dòng hải lưu vận chuyển bùn cát về phía Nam. Đây chính là
hướng di chuyển bùn cát thực trên dải ven biển từ Tp. Hồ Chí Minh
đến Cà Mau.
Tháng
4 và tháng 10 là thời đoạn chuyển tiếp giữa hai mùa, gió trong thời gian này có
tính không ổn định cao trong cả hướng gió và cường độ.
Hình 4. Hoa gió U10m (2000 – 2008) ở ven biển Bến
Tre cách bờ khoảng 10 km (số liệu gió giờ trích từ kết quả mô hình toàn cầu
CFSR của NOAA)
3.3. Tác động của sóng
Sóng
là sản phẩm nội sinh trong quá trình tương tác giữa gió, cụ thể hơn là quá
trình lưu chuyển tầng khí quyển bề mặt đại dương và nước biển. Ở ngoài biển
sâu, hướng sóng thường trùng với hướng của gió. Tuy nhiên khi vào gần bờ, dưới
tác động của ma sát với đáy biển nên sóng bị tiêu hao năng lượng, chiều cao sóng
giảm dần (hiệu ứng nước nông), đồng thời hướng sóng bị thay đổi tùy theo dạng
địa hình (hiện tượng khúc xạ sóng). Khi sóng truyền đến khu vực có độ sâu tới
hạn thì sẽ xảy ra hiện tượng sóng vỡ, giải phóng một phần năng lượng sóng, một
phần sẽ chuyển thành các sóng thứ cấp. Quá trình sóng vỡ có thể xảy ra một hay
nhiều lần tùy thuộc vào độ thoải của bờ biển, sóng vỡ càng nhiều lần thì năng
lượng bị tiêu hao càng nhiều. Khi gặp bờ, quá trình giải phóng năng lượng sóng
sẽ xảy ra (sóng vỗ bờ). Quá trình hoạt động của sóng, sóng vỡ cũng như sóng vỗ
bờ, là tác nhân chính đào xới, mài mòn, phá vỡ kết cấu bề mặt đáy bờ/thành bờ.
Đồng thời quá trình trên còn tạo ra dòng chảy vận chuyển bùn cát (theo chiều
dọc bờ cũng như theo phương trực giao với bờ) đi nơi khác.
Hình 5. Hoa sóng (2006 – 2009) ngoài khơi trên biển Đông cách bờ 28
km (a) và trên biển Tây cách bờ 37 km (b) (số liệu sóng trích từ mô
hình sóng toàn cầu WWIII của NOAA)
Như
đã đề cập ở trên, đối với khu vực bờ biển giáp biển Đông từ Tp. Hồ Chí Minh đến
mũi Cà Mau thì sóng theo hướng Đông chiếm ưu thế, chiều cao sóng trung bình gần
bờ khoảng 0.8 ÷ 1.0 m, lớn nhất khoảng 2.0 m (xem hình 5). Phần biển phía
Tây từ mũi Cà Mau đến Kiên Giang hướng sóng chiếm ưu thế lại là hướng Tây và
Tây Nam, chiều cao sóng gần bờ trung bình khoảng 0.6 ÷ 0.8 m, lớn nhất khoảng
1.6 m.
3.4. Ảnh
hưởng của thủy triều
Khu
vực biển Đông chịu chi phối bởi chế độ bán nhật triều không đều, biên độ triều
lớn khoảng 2 ÷ 4 m. Với chế độ triều và biên độ triều như trên nên tốc độ truyền
triều rất nhanh, tạo ra vận tốc dòng chảy lớn, đặc biệt lại các vùng cửa sông,
gây ra xói lở đáy biến. Với các đặc điểm này nên các quá trình thành tạo
bờ biển trong khu vực chịu tác động của sông – triều rất rõ rệt. Ngoài ra, do
phần lớn bờ biển trong khu vực là rất thoải, kết hợp với chế độ triều có biên
độ lớn và thay đổi nhiều lần trong ngày nên phạm vi tác động của sóng – triều
lên vùng bờ là rất rộng.
Chế
độ triều khu vực biển Tây chịu chi phối bởi chế độ nhật triều là chính, với
biên độ triều thấp hơn nhiều so với triều biển Đông, chỉ khoảng 0.8 ÷ 1.2 m.
Tuy nhiên do bờ biển rất thoải, hầu như bằng phẳng nên vùng bờ chịu ảnh hưởng
của sóng – triều cũng rất rộng. Do trong khu vực này không có các cửa sông lớn
nên nhân tố động lực chiếm ưu thế trong quá trình thành tạo bờ biển là thủy
triều và sóng.
3.5. Vai
trò của rừng ngập mặn
Rừng
ngập mặn có vai trò vô cùng quan trọng về mặt sinh thái và môi
trường như: điều hoà khí hậu, hạn chế bão gió, bảo vệ đê ven biển, góp
phần làm sạch môi trường do có thể làm giảm hàm lượng kim loại nặng có trong
nước thải nội địa đổ ra vùng cửa sông, ven biển, đồng thời giữ gìn sự cân bằng
sinh thái tự nhiên cho những vùng đất bị ngập nước. Bên cạnh đó, rừng ngập
mặn cũng là một trong những yếu tố chính điều phối quá trình thành
tạo bờ biển. Giữa rừng ngập mặn và quá trình xói lở bồi tụ bờ
biển có một mối quan hệ rất chặt chẽ. Rừng ngập mặn có tác dụng
giảm sóng và dòng chảy, tạo điều kiện thuận lợi để bùn cát tích tụ
nhanh và nhiều hơn, đồng thời cũng làm bùn cát cố kết tốt hơn, chống
xói lở. Lá cây rừng cũng là nguồn trầm tích đáng kể cho bờ biển. Nó
cách khác, rừng ngập mặn giúp tiến trình bồi tụ phát triển nhanh
hơn. Ngược lại, quá trình bồi tụ nhanh lại tạo điều kiện cho rừng
ngập mặn phát triển tốt. Như đã trình bày trong mục 3.2, một
khi rừng ngập mặn bị suy thoái và không thể tự hồi phục, quá trình
xói lở sẽ xảy ra và tiếp diễn liên tục.
3.6. Tác
động của con người
Đối
với khu vực ven biển Nam Bộ, tác động lớn nhất của con người lên quá trình xói
lở và bồi tụ bờ biển đầu tiên phải kể đến những hoạt động làm ảnh hưởng tới
rừng ngập mặn. Theo thống kê của Phân Viện Điều tra Qui hoạch rừng II (Trần
Như Hối & nnk, 2003), diện tích rừng ngập mặn khu vực ĐBSCL đã giảm từ
250.000 ha năm 1950 xuống còn 45.790 ha vào năm 2001. Đặc biệt việc khai thác
quá mức nhất là nạn chặt phá rừng tràn lan để nuôi trồng thủy sản trong những
thập kỷ gần đây đã làm suy thoái nghiêm trọng rừng ngập mặn. Việc nuôi trồng
thủy sản kết hợp với việc xây dựng các công trình ngọt hóa, tuyến đê ven biển
(khu vực Gò Công tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng) đã làm thay đổi môi
trường cũng như hạn chế không gian phát triển rừng ngập mặn, góp phần không nhỏ
trong việc gây suy thoái rừng ngập mặn. Hậu quả không chỉ làm mất cân bằng sinh
thái, mà còn làm mất cân bằng địa động lực vùng bờ gây xói lở nghiêm trọng ở
nhiều nơi.
Một
hoạt động khác của con người được đánh giá là góp phần không nhỏ tác động lên
quá trình xói lở bồi tụ trong khu vực ĐBSCL chính là việc xây dựng các đập
trong lưu vực các hệ thống sông Mekong và Sài Gòn – Đồng Nai. Theo các báo
cáo của Ủy ban sông Mekong (World Bank, 2004; MRC, 2010), kể từ năm
1966 đến nay đã có tổng cộng 24 đập thủy điện và hồ chứa nước trên các nhánh
sông thuộc các nước thượng nguồn và 3 đập trên dòng chính phía Trung Quốc được
xây dựng. Việc xây dựng các đập này đã tác động trực tiếp, làm giảm đáng
kể lượng bùn cát cung cấp cho biển. Theo nghiên cứu của Lu và Siew (2005),
sau khi đập Manwan trên dòng chính của Trung Quốc đi vào vận hành năm
1993 đã làm giảm lượng phù sa phía hạ lưu một cách rất rõ rệt. Tuy đã
được bù đắp bằng phù sa từ các phần lưu vực khác phía hạ lưu, nhưng
số liệu quan trắc cho thấy hàm lượng phù sa trung bình tại các trạm
Tân Châu, Châu Đốc, Cần Thơ, Mỹ Thuận đã giảm đến 20 – 30% (xem Hình 4).
Rõ ràng, việc suy giảm nguồn phù sa này đã và sẽ góp phần không
nhỏ làm xói lở bờ biển.
Hình 6. Thay đổi nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình tháng tại
các trạm Cần Thơ và Mỹ Thuận trước và sau khi đập Manwan đi vào vận hành năm
1993. Đường nằm ngang biểu thị nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình (Nguồn: Su
and Siew, 2005.)
Trong
phạm vi lưu vực hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai với điểm ra là cửa
soài Rạp, hàng loạt đập thủy điện và hồ chứa thủy lợi đã được xây dựng các
đập trên dòng chính như đập Trị An trên sông Đồng Nai (bắt đầu vận
hành năm 1987), đập Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn (1985), và hàng loạt
các đập nhỏ khác trên các sông nhánh. So với các đập trên lưu vực sông
Mekong, các đập trên lưu vực Sài Gòn – Đồng Nai gần biển hơn nhiều. Tuy không
có các tài liệu quan trắc để phân tích so sánh, chúng tôi tin rằng việc xây
dựng các hồ đập nói trên đã làm giảm đáng kể lượng phù sa, bùn cát cung
cấp cho biển, góp phần làm xói lở bờ biển.
Ngoài
những nguyên nhân kể trên, hiện tượng nước biển dâng do biến đổi khí hậu, hoạt
động tân kiến tạo dọc bờ biển cũng đóng vai trò đáng kể vào quá trình xói lở,
bồi tụ bờ biển.
4.
Giải pháp chống xói lở và bảo vệ bờ biển
Các
giải pháp chống xói lở, bảo vệ bờ biển thông thường được chia làm hai nhóm là:
nhóm giải pháp cứng và nhóm giải pháp mềm. Các giải pháp này nói chung có hai
chức năng chính là kiểm soát sóng và dòng chảy ven bờ cũng như sự vận chuyển
bùn cát dọc bờ. Nhóm các giải pháp cứng bao gồm: kè biển, kè mỏ hàn, đê ngầm
phá sóng, kè mỏ hàn kết hợp đê ngầm phá sóng, “mũi đất” nhân tạo. Các giải pháp
mềm bao gồm: nuôi bãi, trồng rừng ngập mặn, và đụn cát. Các giải pháp cứng có
những nhược điểm là gây xói lở (ở chân công trình hoặc khu vực bờ phía dưới
công trình), gây bồi không cần thiết, giá thành cao. Trong khi đó, các giải
pháp mềm thì thường đòi hỏi khoảng thời gian dài (năm đến mười năm) mới đem lại
hiệu quả. Ngoài ra, giải pháp mềm như trồng rừng chứa đựng nhiều rủi
ro vì phụ thuộc nhiều vào môi trường, loại đất, tốc độ bồi lắng. Thực
tế thất bại trong việc trồng rừng ở bờ biển xã Trung Bình huyện
Long Phú tỉnh Sóc Trăng, xã Tân Thành huyện Gò Công tỉnh Tiền Giang
là những minh chứng về những rủi ro như vậy trong việc sử dụng các
giải pháp mềm đơn lẻ. Vì vậy, giải pháp kết hợp giữa giải pháp cứng và giải
pháp mềm sẽ là giải pháp thường được lựa chọn (Gegar, 2006).
Như
đã trình bày ở mục 3.1, bờ biển khu vực Nam Bộ từ Tp. Hồ Chí Minh đến Kiên
Giang được cấu tạo bởi trầm tích phù sa từ sông có thành phần hạt rất mịn, phần
lớn là hạt bụi và sét và được phân loại là dạng “bờ mềm”, trong đó rừng ngập
mặn ven biển giữ vai trò then chốt đối với sự ổn định cũng như trong quá trình
bồi tụ xói lở bờ biển. Bên cạnh đó, nguồn phù sa từ sông Mekong cũng như sông
Sài Gòn – Đồng Nai cung cấp cho biển, tuy đã bị giảm do việc xây dựng các đập ở
thượng lưu nhưng vẫn được đánh giá là dồi dào so với các lưu vực sông lớn khác
trên thế giới như sông Yangte, Mississippi (Xue & nnk, 2010). Từ kết
quả phân tích diễn biến đường bờ trong nghiên cứu này, có thể thấy rằng bờ biển
trong khu vực nghiên cứu đang trong giai đoạn phát triển mạnh, với xu thế
chung là tiếp tục lấn ra phía biển. Từ đó có thể kết luận rằng giải pháp tối ưu
để bảo vệ bờ biển những khu vực bị sạt lở ven biển Nam Bộ chỉ có thể là giải
pháp kết hợp giữa giải pháp cứng và giải pháp mềm, cụ thể là giải pháp công
trình giảm sóng gây bồi kết hợp trồng rừng ngập mặn. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ bờ,
mục tiêu chỉnh trị lâu dài phải là tận dụng nguồn phù sa từ các sông để tiếp
tục lấn biến.
Sự
thành công của giải pháp nêu trên không chỉ phụ thuộc vào hiệu quả trong việc
chống xói lở và gây bồi của công trình mà còn được quyết định bởi sự thành công
của việc trồng rừng. Kinh nghiệm trồng rừng ở ĐBSCL cho thấy, có ba yếu tố chính
gây trở ngại sự tồn tại của cây trồng (i) sóng to làm tróc gốc cây và gây ra
xói lở nền đất, (ii) phù sa từ các sông bồi lấp cây mới trồng và (iii) sự đeo
bám của con hào làm đổ, ngã cây (Trần Thanh Cao & nnk, 2006). Bên
cạnh đó, các hoạt động của con người cũng có thể là yếu tố đe dọa sự thành công
của các hoạt động trồng rừng.
Xuất
phát từ những đặc điểm và mục tiêu nêu trên, rút kinh nghiệm từ thành công và
thất bại của những dự án trồng rừng trong thời gian gần đây ở các tỉnh Tiền
Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, và Cà Mau (Phạm Trọng Thịnh & nnk, 2009),
để đảm bảo sự thành công cho giải pháp kết hợp công trình giảm sóng và gây bồi,
chúng tôi kiến nghị một số điểm sau:
(i)
Hình thức gây bồi và trồng rừng lấn biển: nên thực hiện theo hình thức lấn dần
từng bước theo từng giai đoạn, trình tự từ trong ra ngoài.
(ii)
Giải pháp công trình giảm sóng gây bồi: chỉ nên áp dụng dạng công trình ngắn
hạn, đơn giản, sử dụng vật liệu địa phương (như cọc cừ tràm kết hợp phên, thảm
cây chắn sóng và điều tiết lưu tốc dòng chảy) hoặc các dạng kết cấu sử dụng vật
liệu nhẹ, có thể tận dụng lại và dễ dàng tháo dỡ, di chuyển và lắp đặt. Chỉ nên
áp dụng các giải pháp kiên cố tại những khu vực mà các giải pháp trên là không
thể thực hiện được.
(iii)
Giải pháp công trình phải đảm bảo tốc độ bồi lắng không quá nhiều, bồi lắng
được cả phù sa hạt mịn có nhiều dinh dưỡng để cây ngập mặn có thể phát triển.
Hệ thống công trình kè và mỏ hàn ở Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh là ví dụ tiêu biểu
về sự thành công trên phương diện chống xói gây bồi nhưng tại các khu vực được
bồi, rất ít hoặc không có cây ngập mặn phát triển.
(iv)
Phải quan tâm đúng mức đến kỹ thuật trồng và chăm sóc cây ngập mặn. Bên cạnh
đó, công tác quản lý và tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân trong việc
bảo vệ rừng cũng rất quan trọng.
5. Kết luận, kiến nghị
Toàn
cảnh bức tranh xói lở và bồi tụ bờ biển Nam Bộ từ Tp. Hồ Chí Minh đến Kiên
Giang đã được mô tả khá chi tiết thông qua kỹ thuật chồng ghép bản đồ và phân
tích ảnh viễn thám. Có thể thấy rằng bờ biển trong khu vực nghiên cứu
đang trong giai đoạn phát triển mạnh và phức tạp, với xu thế chung là tiếp
tục lấn ra phía biển. Khu vực bờ ven biển Tây khá ổn định, quá trình bồi tụ
chiếm ưu thế. Khu vực bờ ven biển Đông quá trình bồi tụ và xói lở xen kẽ nhau,
tuy nhiên bồi tụ lấn biển vẫn chiếm ưu thế. Xói lở chỉ xảy ra tại một số khu
vực như Gò Công, Vĩnh Châu, Gành Hào, v.v…, nhưng do cấu tạo đường bờ, hướng
đường bờ bất lợi kết hợp với tác động của con người gián tiếp qua việc làm suy
thoái rừng phòng hộ, nên dưới tác động tổ hợp của thủy triều, dòng chảy ven bờ,
và đặc biệt là sóng gió trong thời gian gió mùa Đông Bắc mà tốc độ xói lở diễn
ra rất mạnh, đã và đang đe dọa an toàn của nhiều tuyến đê biển. Bờ biển khu vực
nghiên cứu được cấu tạo bởi trầm tích phù sa từ sông có thành phần hạt rất mịn,
phần lớn là hạt bụi và sét nên rừng ngập mặn ven biển giữ vai trò then chốt đối
với sự ổn định cũng như trong quá trình bồi tụ xói lở bờ biển. Giữa rừng
ngập mặn và quá trình xói lở bồi tụ bờ biển có một mối quan hệ
rất chặt chẽ.
Từ
các kết quả phân tích về xu thế diễn biến xói lở bồi tụ, các đặc điểm cấu tạo,
các nguyên nhân và tác động chính đến quá trình xói lở bồi tụ trong nghiên cứu
này, có thể đi đến kết luận rằng giải pháp phù hợp nhất để bảo vệ bờ biển những
khu vực bị sạt lở ven biển Nam Bộ chỉ có thể là giải pháp công trình giảm sóng
gây bồi kết hợp trồng rừng ngập mặn. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ bờ, mục tiêu chỉnh
trị lâu dài phải là tận dụng nguồn phù sa từ các sông để tiếp tục lấn biến. Do
vai trò hết sức quan trọng của rừng ngập mặn nên công tác trồng rừng, công tác
quản lý và tuyên truyền ý thức bảo vệ rừng cho người dân cần phải được phối hợp
chặt chẽ, quan tâm đúng mức của các cấp các ngành với một sách lược lâu dài.
Tài liệu tham khảo
1.
Gegar Prasetya, 2006. Coastal protection in the aftermath of the Indian
Ocean tsunami: What role for forests and trees?, chapter 4: Protection
from coastal erosion. FAO, RAP publication 2007/07.
2.
Lap N. V., Oanh T. T. K., Tateishi, M., 2000. “Late Holocene depositional
environments and coastal evolution of the Mekong River Delta, Southern
Vietnam. Journal of Asian Earth Sciences, 18 (4),
pp. 427–439.
3.
Lu X. X., and Siew R. Y., 2005. “Water discharge and sediment flux changes in
the Lower Mekong River”. Hydrology and Earth System Science Discussion, 2,
pp. 2287–2325.
4.
MRC, 2010. “Assessment of Basin-wide Development Scenarios”, main report. Basin
Development Plan Programme, Phase 2.
5.
Oanh T. T. K., Lap N. V., Tateishi M., Kobayashi I., Tanabeb S., and Saito Y.,
2002. “Holocene delta evolution and sediment discharge ofthe Mekong River,
southern Vietnam”. Quaternary Science Reviews, 21, pp.
1807–1819.
6.
Phạm Trọng Thịnh, Hoàng Thơi, Trần Huy Mạnh, Lê Trọng Hải, và Klaus Schmitt,
2009. Hướng dẫn kỹ thuật khôi phục và quản lý rừng ngập mặn. Tổ
chức Hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ): Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng ven
biển tỉnh Sóc Trăng. Website:http://czm-soctrang.org.vn/vn/publications.aspx?ID=docs.
7.
Phan Anh Tuấn, 2004. Báo cáo đề tài điều tra cơ bản “Diễn biến đường bờ biển từ
Bình Thuận – Mũi Cà Mau đến Kiên Giang”. Lưu trữ Viện Khoa học Thủy lợi Miền
Nam.
8.
Trần Như Hối, Tăng Đức Thắng, và Nguyễn Thanh Hải, 2003. Đê biển Nam Bộ.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh, 230 trang.
9.
Trịnh Thế Hiếu, Lê Phước Trình, Tô Quang Thịnh, 2005. “Hiện trạng và dự báo sự
biến động bờ biển và các cửa sông ven biển Việt Nam”, website http://www.dgmv.gov.vn/default.aspx?tabid=125&ItemID=1261.
10.
Xue Z., Liu J. P., DeMaster D., Lap N. V., and Oanh, T. T. K., 2010. “Late
Holocene Evolution of the Mekong Subaqueous Delta, Southern Vietnam” , Marine
Geology, 269, pp. 46 – 60.
11.
World Bank, 2004. Modelled Observations on Development Scenarios in the Lower
Mekong Basin. Mekong Regional Water Resources Assistance Strategy, prepared for
the World Bank with MRC cooperation.
Tác giả: PGS.TS. Lê Mạnh Hùng, TS. Nguyễn Duy Khang, ThS. Lê Thanh
Chương
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy lợi
Hiện tại trang web đang trong quá trình xây dựng cập nhật thêm thông tin, vì vậy BQT miễn phí đặt quảng cáo đến hết ngày 31-12-2015.
ReplyDeleteLiên hệ
Điện thoại : 0129.313.1989
Website: http://congtrinhthuy.com/
Email : admin@congtrinhthuy.com
Fanpage Facebook : http://facebook.com/CongTrinhThuy.Com.VietNam
Vị trí đặt quảng cáo : Banner chạy dọc 2 bên, kích thước 165x165