Vùng biển Việt Nam có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất
quan trọng. Với chiều dài hơn 3.260 km, biển Việt Nam có hơn bốn nghìn
hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ và hai quần đảo là Hoàng Sa, Trường Sa.
Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nghiên cứu biển,
đảo phục vụ sự nghiệp CNH, HÐH và bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền
lãnh thổ càng trở nên cấp thiết.
Cán bộ Viện Ðịa lý (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) khảo sát thực địa tại quần đảo Trường Sa.
Biển nước ta nằm trên đường giao thông biển quốc
tế từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, vì vậy có vị trí địa chính trị,
địa lý quân sự hết sức quan trọng. Biển, đảo và quần đảo của nước ta có
tầm quan trọng hết sức lớn đối với sự phát triển trường tồn của đất
nước, nhất là trong sự nghiệp CNH, HÐH đất nước ngày nay.
Tuy
nhiên, bên cạnh những tiềm năng to lớn mà thiên nhiên ban tặng, hằng năm
vùng ven biển nước ta luôn phải hứng chịu nhiều thiên tai như bão, áp
thấp nhiệt đới, gió mùa, triều cường, nước dâng... Hệ quả của nó là gây
xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông, phá hủy nhiều công trình dân sinh,
kinh tế ven bờ, phá vỡ cấu trúc hệ sinh thái ven biển, gây không ít khó
khăn cho các hoạt động sản xuất, an ninh quốc phòng và đời sống của
những người dân ven biển. Mặt khác, các tác động của hoạt động kinh tế -
xã hội vùng ven biển, trên các đảo như khai thác, chế biến tài nguyên
biển đã và đang trực tiếp hoặc gián tiếp làm cạn kiệt tài nguyên và suy
thoái môi trường biển.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Ðảng khóa X đã ban hành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Theo
đó đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2020 Việt Nam trở thành quốc
gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, phát huy mọi tiềm năng từ biển. Cho
nên, việc nghiên cứu biển đảo trên quan điểm địa lý tổng hợp một cách
khoa học và hệ thống góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế biển và
bảo đảm an ninh quốc phòng là hết sức cấp thiết.
Viện Ðịa lý (Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã được giao chủ trì thực hiện nhiều đề
tài, dự án, nhiệm vụ chuyên môn các cấp về nghiên cứu biển - đảo phục
vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, phòng, chống thiên tai và bảo vệ chủ
quyền của đất nước. Hàng chục đề tài cấp nhà nước đã được hoàn thiện,
trong đó có đề tài: "Nghiên cứu, dự báo phòng, chống sạt lở bờ biển miền
trung (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận)" do PGS, TSKH Nguyễn Văn Cư làm chủ
nhiệm. Ðề tài làm sáng tỏ hiện trạng sạt lở bờ biển miền trung và xác
định nguyên nhân, tìm ra quy luật và dự báo, cảnh báo tai biến sạt lở bờ
biển ở một số đoạn xung yếu. Trên cơ sở đó, đề tài đã đề xuất các giải
pháp khoa học kỹ thuật xử lý, ứng cứu, phòng tránh thích hợp bao gồm các
giải pháp công trình và phi công trình. Nghiên cứu các quá trình xói
lở, bồi tụ, bảo vệ bờ biển, biến đổi lòng dẫn vùng cửa sông trong những
năm qua chủ yếu được tiến hành trong khuôn khổ các chương trình điều
tra, nghiên cứu biển cấp nhà nước và hiện nay là các chương trình khoa
học công nghệ biển cấp nhà nước. Trong giai đoạn 2001 - 2005, Viện Ðịa
lý chủ trì thực hiện đề tài cấp nhà nước KC - 09 - 05: "Dự báo hiện
tượng xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông và các giải pháp phòng tránh". Ðề
tài đã đánh giá được hiện trạng xói lở, bồi tụ toàn dải bờ biển, cửa
sông Việt Nam và một số khu vực trọng điểm, xác định nguyên nhân gây xói
lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông Việt Nam. Nhóm tác giả cũng đã dự báo được
xu thế xói lở, bồi tụ một số khu vực trọng điểm bờ biển, cửa sông Việt
Nam trên cơ sở phân tích, đánh giá các tác nhân, hiện trạng và xu thế
diễn biến, xói lở, bồi tụ ở các đoạn bờ biển cụ thể. Ðồng thời đề xuất
được các giải pháp KH và CN phòng, chống xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa
sông cho các khu vực trọng điểm. Trong các năm từ năm 2007 đến 2010,
Viện Ðịa lý tiếp tục chủ trì đề tài cấp Nhà nước KC.08.10/06-10: "Nghiên
cứu quá trình động lực học, dự báo sự vận chuyển, bồi lắng bùn cát tại
Lạch Huyện, Nam Ðồ Sơn (Hải Phòng) trước và sau khi xây dựng cảng nước
sâu và giải pháp khắc phục". Kết quả nổi bật của đề tài là đã đánh giá
được hiện trạng và diễn biến xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông; biến động
địa hình đáy biển vùng cửa sông ven biển Lạch Huyện, Nam Triệu, Nam Ðồ
Sơn, và từ đó xác định nguyên nhân sa bồi luồng tàu, xói lở, bồi tụ bờ
biển, cửa sông Lạch Huyện (Nam Ðồ Sơn). Ðề tài đã lựa chọn, ứng dụng và
hoàn thiện một số mô hình số trị thủy động tính toán sự vận chuyển, bồi
lắng bùn cát tại cửa Lạch Huyện phù hợp điều kiện đặc thù khu vực nghiên
cứu với các phần mềm tương thích và kết quả tính toán dự báo đạt độ
chính xác cho phép. Trên cơ sở đó các nhà khoa học đề xuất các giải pháp
khắc phục bồi lắng luồng tàu và các biện pháp ngăn ngừa ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái Cát Bà, tây bắc vịnh Hạ Long và Ðồ Sơn.
Tham
gia chương trình "Biển Ðông - Hải đảo", cách đây hơn 10 năm, Viện chủ
trì đề tài TS-02: "Nghiên cứu động lực và địa chất công trình, đề xuất
giải pháp chống xói lở đảm bảo ổn định, an toàn các công trình trên quần
đảo Trường Sa"... Kết quả nổi bật của đề tài là: đã xây dựng được bộ tư
liệu về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng quá trình bồi xói ven bờ bốn đảo
lựa chọn (địa hình, địa mạo, trầm tích tầng mặt, sóng, gió, dòng chảy,
vận chuyển bùn cát, biến dạng bờ bãi và địa chất công trình nền móng).
Ðề tài đã khảo sát, đo đạc đánh giá được hiện trạng bồi xói ven bờ đảo
và dự báo xu thế biến động đường bờ trong trạng thái tự nhiên. Các nhà
khoa học đã xác định được bản chất hiện tượng xói lở bờ biển của bốn
đảo: Trường Sa, Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử Tây. Mặt khác đã xây dựng được
một bộ bản đồ chuyên đề phục vụ cho việc quy hoạch, thiết kế, xây dựng
các công trình trên đảo. Một số kết quả nghiên cứu của đề tài đã được
ứng dụng và mang lại hiệu quả thiết thực. Ðề tài: "Xây dựng luận cứ khoa
học cho việc quy hoạch khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường phục vụ phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa". Sau ba năm triển khai, đề tài thu được những
kết quả quan trọng là đã đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên và môi trường một số đảo quan trọng và vùng biển
quanh đảo. Ðã xác định tiềm năng một số dạng tài nguyên quan trọng trên
ba đảo lựa chọn là Trường Sa, Nam Yết và Ðá Tây. Trên cơ sở đó đề xuất
các biện pháp khoa học - kỹ thuật khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường, góp phần giữ vững chủ quyền lãnh thổ quần đảo Trường
Sa.
Cùng với sự tăng cường, đổi mới trang bị kỹ thuật, trình độ
nghiên cứu của đội ngũ cán bộ khoa học biển của ngành địa lý cũng được
nâng lên một bước rõ rệt. Với sự cầu thị, không ngừng học hỏi, đến nay,
các cán bộ nghiên cứu biển, nhất là các cán bộ trẻ, đã sử dụng phổ biến
các phương pháp, kỹ thuật hiện đại như: mô hình số trị, các công cụ toán
học, công nghệ thông tin, kỹ thuật viễn thám, GIS... trong nghiên cứu
các dạng tai biến, môi trường biển. Nhờ vậy, các kết quả nghiên cứu hiện
nay đã khác nhiều so với trước đây về chất lượng và tính hiện đại.
Tuy
nhiên các phương tiện và thiết bị nghiên cứu khoa học biển và hệ thống
các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế biển nước ta
chưa được đầu tư thích đáng. Nước ta chưa có một mạng lưới trạm quan
trắc đủ mạnh, trạm thu ảnh vệ tinh thường xuyên theo dõi, thu thập chủ
động, có hệ thống các dữ liệu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi
trường biển khu vực Biển Ðông và lân cận...
Các mô hình số công
nghệ cao đã được các nhà khoa học của Viện Ðịa lý áp dụng có hiệu quả
trong các bài toán tính toán, dự báo quá trình xói lở, bồi tụ vùng bờ
biển, đã cho chúng ta bức tranh tổng thể về quy luật biến đổi địa hình
vùng bờ biển Việt Nam và chi tiết cho một số khu vực bờ biển bị sạt lở,
cửa sông bị bồi tụ nghiêm trọng. Song các mô hình số trị tính toán, dự
báo quá trình thủy thạch động lực chỉ có thể đạt hiệu quả khi các số
liệu đầu vào (địa hình, chế độ sóng, gió, dòng chảy, mực nước,...) có độ
tin cậy cao.
Nghiên cứu biển, đảo trên quan điểm địa lý tổng
hợp trong thời gian tới đòi hỏi những nỗ lực hơn nữa của tập thể cán bộ
khoa học ngành địa lý cũng như Hội Ðịa lý Việt Nam trong nghiên cứu cơ
bản cũng như về biển, đảo, nghiên cứu ứng dụng và triển khai. Ðẩy mạnh
công tác nghiên cứu liên ngành, đa ngành về các quá trình tự nhiên, kinh
tế - xã hội, môi trường và luật pháp về biển.
TS NGUYỄN ÐÌNH KỲ
Viện trưởng Viện Ðịa lý,
Viện KH và CN Việt Nam
0 nhận xét:
Post a Comment