Test Footer 2

Vài nét về Thủy lợi Hà Lan

I. Sơ lược lịch sử thủy lợi Hà Lan: "Chúa tạo ra Trái đất, nhưng người Hà Lan tạo ra đất nước Hà Lan".

Hà Lan có diện tích 41 543 km² , ân số 16,5 triệu người, mật độ 486 ng/km²; Thủ đô: Amsterdam, trung tâm chính trị: La-Hay. GDP 677,5 tỷ USD, xếp thứ 16. 40,5 ngàn USD/người, xếp thứ 9.
Hà Lan là vùng đất thấp, châu thổ của 4 con sông Rhine, Maas, Schelde và IJssel. Lịch sử thủy lợi Hà Lan là lịch sử đấu tranh với biển và với nước từ trên 2000 năm đến nay.


Bản đồ của Hà Lan năm 1300


Hai nghìn năm trước đây người Hà Lan bắt đầu đắp những vùng đất cao đê sinh sống.



Nhiều gò vẫn còn tồn tai đến ngày nay, ở vùng chậm lũ và phân lũ người ta cũng sẽ áp dung mô hình này cho môt số hộ gia đình
Tiếp theo là họ đắp đê để hình thành các vùng đất trũng để canh tác được lại là các polder:
  

Vấn đề tiêu thoát nước được quan tâm từ khi hình thành các polder, đến thế kỷ 15 các trạm bơm chạy bằng sức gió đã được xây dựng, có nhiều vùng phải bơm nhiều cấp:


Năm 1850 trạm bơm chạy bằng hơi nước đầu tiên đã được xây dựng. Hiên nay được thay thế bởi các trạm bơm tiêu điện.



Trạm bơm hơi nước đầu tiên được xây dựng năm 1750 

- Thiên tai:
Các con đê được đắp riêng rẽ cho các vùng nhỏ, dần dần được liên kết thành những vùng lơn hơn, mức độ an toàn không cao nên thường xuyên bị vỡ những nơi bị vỡ đê từ năm 1700 đến 1950



Những điểm vỡ đê từ năm 1700 đến 1950

Những trận thiên tai nặng nề nhất: năm 1134, 1287, 1375, 1404, 1421, 1530, 1570, 1717, 1916, 1953.
•         1287, đê bị vỡ tạo ra một vịnh mới Zuiderzee Biển Nam 
•         1421: lụt ở Zeeland và Holland, 30 làng bị ngập và khoảng 2000 người chết.
•          1570: Vỡ đê làm ngập 2/3 diện tích của Hà Lan. Hơn 2000 người chết, hàng chục ngàn người mất nhà cửa. 
•         Giáng sinh 1717, trận bão Biển Bắc tồi tệ nhất trong vòng 400 năm tấn công Hà Lan, Đức và Scandinavia làm 14.000 người chết. Hà Lan có 2276. 
•         Năm 1916, nhiều đê điều ở Zuiderzee bị vỡ dẫn đến việc xây dựng đập ngăn và con đê Afsluitdijk  dài 32 km.
•         Ngày 1/2/1953, bão lũ đã nhấn chìm phần lớn khu vực phía tây nam của Hà Lan, giết chết 1835 người, làm ngập hơn 150 ngàn ha đất. 




II. Dự án Delta Works
Delta Works kết thúc vào năm 1997 với 15 hạng mục công trình chính, bao gồm hệ thống hệ sông, đê biển với chiều dài 16.493 km, trong đó 2.415 km đê chính và 14.077 km đê phụ; hệ thống cống chắn nước dâng do bão, cống tiêu nước và âu thuyền dài 3.200m (như: Hollandse Ijssel storm surge barrier (1958); Maeslant Barrier (1997); Haringvliet Dam (1970); Volkerak Dam (1969); Browers dam (1971); Grevelingen Dam (1972); Oosterschelde storm surge (1986); Veerse gat dam (1961); Zandkreek dam (1960); rút ngắn đường giao thông ven biển còn 700km; tạo được 3 hồ chứa nước ngọt rất lớn đảm bảo nguồn nước ngọt ổn định cho cả đất nước trong tương lại.

Sau 20 ngày của trận lụt 1953, Uỷ ban Châu thổ (Deltacommissie) được thành lập và cho ra đời Deltaplan với kế hoạch xây dựng các con đê, xây các đập chắn nước biển dâng bịt các cửa sông ở phía Tây Nam, trừ cửa New Waterway và cửa Tây Scheldt.
Năm 1959, Dự luật Châu thổ (Delta Law) được ban hành để thực hiện dự án Delta Works.

Mục tiêu của dự án Delta Works:
•    An toàn chống lũ
•    Đường GT ven biển-700 km
•    Ngăn biển thành các hồ nước ngọt
•    Xây dựng các đập ngăn nước dâng do bão
•    Tạo giao thông thuỷ giữa các sông Scheldt-Rhine
•    Nâng cấp cơ sở hạ tầng, phục vụ du lịch và nông nghiệp
 

Hệ thống cống ngăn các cửa sông

Kết quả của dự án Delta Works: 
Delta Works kết thúc vào năm 1997 với 15 hạng mục công trình chính, bao gồm hệ thống hệ sông, đê biển với chiều dài 16.493 km, trong đó 2.415 km đê chính và 14.077 km đê phụ; hệ thống cống chắn nước dâng do bão, cống tiêu nước và âu thuyền dài 3.200m (như: Hollandse Ijssel storm surge barrier (1958); Maeslant Barrier (1997); Haringvliet Dam (1970); Volkerak Dam (1969); Browers dam (1971); Grevelingen Dam (1972); Oosterschelde storm surge (1986); Veerse gat dam (1961); Zandkreek dam (1960); rút ngắn đường giao thông ven biển còn 700km; tạo được 3 hồ chứa nước ngọt rất lớn đảm bảo nguồn nước ngọt ổn định cho cả đất nước trong tương lại.  
Hệ thống các công trình bảo vệ ở Biển Bắc của Hà Lan được coi là một trong Bảy Kỳ Quan của Thế giới Hiện đại (theo Hiệp hội Kỹ sư dân dụng Hoa Kỳ). 

“Xem ra biển không còn làm người Hà Lan bận tâm nữa. Mọi chỗ đã đều được ẩn giấu sau các tuyến đê. Biển đã khuất khỏi tầm nhìn và khuất khỏi tâm trí người Hà Lan”. 

 
 Đê biển Afsluidijk sau khi hoàn thành

 
 Hai hồ chứa nước ngọt lớn hình thành




Công trình Maeslandt kering - 1997


III. Biến đổi khí hậu, Uỷ ban Châu thổ
Tháng 12/2007, một Uỷ ban Châu thổ (Deltacommissie) mới được Chính phủ Hà Lan thành lập nhằm đưa ra các tư vấn với tầm nhìn dài hạn cho việc bảo vệ và phát triển bền vững vùng ven biển và các vùng đất thấp.

Biến đổi khí hậu
Trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội như hiên nay và bối cảnh biến đôi khí hậu, chính phủ Hà Lan nhận thấy:
    - Tiêu chuẩn an toàn của nhiều công trình chưa đáp ứng được yêu cầu, khoảng gần 30% chiều dài đê có cao trình thấp hơn yêu cầu)
    - Nhiều tiêu chuẩn thiết kế đã lạc hậu
    - Trong điều kiện biến đổi khí hậu: Mức nước biển dâng và dòng chảy lũ tăng dẫn đến vấn đề an toàn trong mùa lũ bị đe dọa; Giảm dòng chảy kiệt đã đến hạn hán và xâm nhập mặn
    Số liệu đo đạc cho thấy nhiệt độ ở Hà Lan từ năm 1900 đến nay đã tăng +1,7°C lớn hơn trung bình trên thế giới là +0.8 °C
    Mực nước dâng ở Hà Lan là 24cm/100 năm, lớn hơn trung bình của Thế giới là khoảng 20cm/100 năm, trong 10 năm qua là 30cm/100 năm.
    Lưu lượng max của sông Rhin tăng 12%, sông Meus tăng 24%

Ủy ban châu thổ
Tháng 12/2007, một Uỷ ban Châu thổ (Deltacommissie) mới được Chính phủ Hà Lan thành lập nhằm đưa ra các tư vấn với tầm nhìn dài hạn cho việc bảo vệ và phát triển bền vững vùng ven biển và các vùng đất thấp.
Trọng trách của Ủy Ban Châu thổ:
Chính phủ Hà Lan đã yêu cầu Ủy ban Châu thổ (sau đây gọi tắt là Ủy ban) đưa ra các kiến nghị để bảo vệ các vùng ven biển Hà Lan và những vùng đất thấp bên trong trước các tác động của biến đổi khí hậu. Nhiệm vụ trọng trách đặt ra là làm thế nào để đảm bảo cho đất nước Hà Lan có thể an toàn trước các biến đổi khí hậu trong một thời gian rất dài, an toàn trước nguy cơ lũ lụt trong khi vẫn duy trì được là một vùng đất hấp dẫn để sinh sống, cư trú và làm việc cũng như để giải trí và đầu tư.
Ủy ban đưa ra kết luận rằng nên xem xét việc mực nước biển sẽ dâng lên từ 0.65 tới 1.3 m cho đến năm 2100 và từ 2 tới 4 m cho đến năm 2200.  Với việc mực nước biển dâng lên, lưu lượng nước trong sông giảm vào mùa hè, sự xâm nhập mặn theo các con sông và nước ngầm, tất cả tạo áp lực lên việc cung cấp nước ngọt cho quốc gia cũng như các ngành nông nghiệp, hàng hải và các lĩnh vực khác của nền kinh tế có liên quan tới nước.

Tháng 9/2008 Ủy Ban Châu thổ (Deltacommissie) đã đề xuất 12 biện pháp để chống lũ, nâng cấp đê điều và bổ sung cát chống xói lở bờ biển.

Mười hai kiến nghị đảm bảo cho tương lai
Ủy ban đã xây dựng kế hoạch tổng hợp cho tới năm 2100 và sau đó. Một kế hoạch lâu dài như vậy phụ thuộc vào sự phát triển của Hà Lan, Châu Âu và thế giới. Các kiến nghị cụ thể cho giai đoạn ngắn hạn và trung hạn cần phải được thực hiện, tuy nhiên công việc cần làm ngay là phải nâng cao mức độ phòng chống lũ lụt và đảm bảo cung cấp nước ngọt. Ủy ban đã đưa ra mười hai kiến nghị sau đây cho giai đoạn ngắn hạn và trung hạn.

Kiến nghị 1: Cấp độ phòng chống lũ
Các cấp độ phòng chống lũ cho các vùng có đê bảo vệ phải được nâng lên gấp 10 lần so với hiện nay. Để thực hiện điều này thì các tiêu chuẩn mới sẽ được thiết lập vào khoảng 2013. Tất cả các giải pháp nhằm nâng cao cấp độ phòng chống lũ phải được thực hiện trước năm 2050. Các cấp độ phòng chống lũ phải được cập nhật và điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với tình hình mới.
Kiến nghị 2: Các kế hoạch phát triển đô thị mới
Việc quyết định có nên phát triển ở những vùng trũng ngập lũ hay không phải dựa
trên cơ sở phân tích chi phí và lợi ích. Phân tích này phải tính đến những chi phí hiện tại và tương lai đối với tất cả các ngành và các bên có liên quan. 


Kiến nghị 3: Những vùng nằm ngoài đê
Việc phát triển mới những vùng nằm ngoài phạm vi bảo vệ của đê phải đảm bảo
không gây cản trở cho dòng chảy của sông hoặc ảnh hưởng tới mực nước hồ trong
tương lai. Để tránh các tác động bất lợi, các cư dân và những người sử dụng các
công trình này phải chịu trách nhiệm về những giải pháp này. Chính phủ sẽ đóng vai trò hỗ trợ bằng cách cung cấp thông tin, thiết lập các tiêu chuẩn xây dựng và cảnh báo lũ.

Kiến nghị 4: Bờ Biển Bắc
Vùng này sẽ phát triển cùng với thiên nhiên. Công tác phòng chống lũ cho các vùng bờ biển của Zeeland, Holland và các đảo ở biển Wadden sẽ được tiếp tục thực hiện bằng biện pháp phun cát nuôi dưỡng bờ biển. Việc phun cát nuôi dưỡng bờ biển phải được thực hiện để các vùng bờ biển có thể phát triển ra hướng biển trong thế kỷ tới. Việc này sẽ đem lại thêm những giá trị to lớn cho xã hội.

Kiến nghị 5: Vùng bờ Biển Wadden.
Công tác phun cát nuôi dưỡng dọc theo vùng bờ Biển Bắc đóng góp vào sự thích nghi của vùng biển Wadden đối với mực nước biển dâng. Việc bảo vệ những vùng trũng và vùng bờ biển bắc Holland tiếp tục được thực hiện, hàng năm Hà lan phun lên vùng bãi đê này 12 triệu m3 cát.
Đối với hai vùng bờ biển này Hà Lan đưa ra khái niệm và quan điểm xây dựng đê thân thiện với môi trường (đê rộng, mái thoải, không kè cứng). 
Kiến nghị 6: Đồng bằng Tây Nam: Eastern Scheldt
Đến 2050 và sau 2050
Công trình ngăn triều Eastern Scheldt đang đáp ứng được các yêu cầu về an toàn.
Điều bất lợi của công trình này là làm giảm lượng nước vào ra khi triều cường và triều thấp và do đó làm mất đi vùng đệm. Việc này được đối phó bằng cách bổ xung phun cát nuôi dưỡng lấy từ bên ngoài (như là từ vùng Outer Delta). Tuổi thọ của công trình ngăn triều ở Eastern Scheldt sẽ được kéo dài bằng các biện pháp kỹ thuật. Điều này có thể được thực hiện cho đến khi mực nước biển dâng lên khoảng 1m (xảy ra sớm nhất là vào năm 2075). Nếu công trình ngăn triều Eastern Scheldt không còn phù hợp nữa, khi đó sẽ tìm giải pháp cho vấn đề này bằng cách lưu trữ phần lớn nước triều tại những vùng cửa sông tự nhiên và đồng thời duy trì mức độ phòng chống lũ phù hợp.
Kiến nghị 7: Đồng bằng tây nam: Western Scheldt
Khu vực này phải duy trì một hệ thống triều mở để đảm bảo giao thông thủy đến vùng Antwerp và duy trì giá trị vùng cửa sông. Công tác phòng chống lũ được đảm bảo bằng cách gia cố thêm hệ thống đê sông.

Kiến nghị 8: Đồng bằng tây nam: Krammer– Volkerak Zoommeer
Có một điều chỉnh nhỏ đối với  giai đoạn 1 là cho phép nước mặn vào hồ Krammer-Volkerak Zoommeer và đưa ra các giải pháp lấy nước ngọt từ vùng khác về để thay thế cho nguồn nước ngọt lấy từ hồ. 
Đến 2050 Vùng Krammer – Volkerak Zoommeer, Grevelingen và có thể cả vùng phía đông Scheldt phải được bố trí lại để có khu vực chứa nước tạm thời cho sông Rhine và sông Meuse khi dòng chẩy ra biển bị ngăn lại khi các cửa cống của công  trình ngăn triều đóng.

Kiến nghị 9: Khu vực những sông chính
Đến 2050 và sau 2050 
Để nâng cao khả năng chống lũ của các con sông nhưng không phải nâng cao đê, Hà Lan đưa ra khái niệm mới là "Room for the River", là các vùng chậm lũ và phân lũ. Các chương trình Vùng chậm lũ và phân lũ cho Sông Rhin và Meuse đòi hỏi phải được tiến hành ngay để có thể tiêu thoát được lưu lượng 18,000m3/s của sông Rhine và 4,600m3/s của sông Meuse.  
Để thực hiên mục tiêu này Hà Lan đã đưa ra các giải pháp mở rộng một số đoạn sông bị thu hẹp và sử dụng vùng chậm lũ, phân lũ.  Để sử dụng vùng chậm lũ Hà Lan phải di dời 150 hộ gia đình và 50 trang trại, giảm 1.280 ha dất canh tác, tăng 1.852 ha đất tự nhiên cho đa dạng sinh học và 20 triệu m3 đất tốt cho canh tác.


 
 Vùng chậm lũ, phân lũ kẹp giữ 2 sông chảy ra phía Tây

Kiến nghị 10: Rijnmond (cửa sông Rhine)
Đến 2050 Đối với vùng Rijnmond giải pháp một hệ thống mở và nhưng có thể đóng lại khi cần thiết sẽ mang lại những triển vọng tốt đẹp cho việc kết hợp các công tác phòng chống lũ, cung cấp nước sạch, phát triển đô thị, phát triển tự nhiên trong vùng này. Khi đó các lưu lượng cực đại của sông Rhine và sông Meuse sẽ được chuyển hướng qua vùng đồng bằng tây nam. Nước ngọt cung cấp cho vùng phía tây Hà Lan sẽ lấy từ hồ Ijsselmeer. Các công trình hạ tầng cần thiết sẽ được xây dựng. Các vùng chứa phải được chuẩn bị để trữ nước cục bộ ở những vùng thấp. Cần tiến hành tiếp tục nghiên cứu hệ thống “đóng – mở” của vùng Rijnmond.

Kiến nghị 11: Vùng IJsselmeer
Đến 2050 và sau 2050 
Sẽ tăng tối đa mực nước hồ IJsselmeer là 1.5m. Điều này cho phép dòng chảy tự nhiên từ hồ vào biển Wadden sau năm 2100. Mực nước hồ Markermeer sẽ không tăng. Hồ IJsselmeer vẫn giữ chức năng chiến lược là hồ chứa nước ngọt cho vùng Northern Netherlands, North Holland và Western Hà Lan do nước mặn xâm nhập vào vùng Nieuwe Waterweg. Các giải pháp làm tăng mực nước hồ có thể được thực hiện từng bước. Mục tiêu là phải có hồ chứa nước ngọt có dung tích lớn nhất vào khoảng 2050. Các giải pháp cần thiết để các nhánh cuối sông IJssel và Zwarte Water thích ứng với việc mực nước hồ IJsselmeer cao hơn 1.5 m cần phải được khảo sát. Tùy vào từng giai đoạn, các giải pháp cần được tiếp tục triển khai để mực nước dâng lên tối đa 1.5m.

Kiến nghị 12: Các vấn đề về chính trị-hành chính, pháp lý, tài chính
1. Việc tổ chức về mặt chính trị và hành chính của công tác phòng chống lũ lụt phải được tăng cường bằng cách: Có được sự chỉ đạo Quốc gia chặt chẽ và trách nhiệm của địa phương đối với việc thực thi. Thành lập một Ủy ban thường trực ở Quốc hội cho vấn đề này. Chủ tịch Ủy ban Châu thổ có trách nhiệm phối hợp và thực thi.
2. Các nguồn tài chính phải được đảm bảo bởi: Thành lập Quỹ Châu thổ do Bộ trưởng Bộ Tài chính điều hành. Nguồn vốn cho Quỹ Châu thổ sẽ là các khoản vay và một phần lợi tức từ khí thiên nhiên. Cung cấp các nguồn vốn quốc gia và phác thảo dự luật sử dụng vốn. 
3. Một Đạo luật Châu thổ sẽ gắn các tổ chức chính trị và hành chính với các nguồn vốn trong khuôn khổ hệ thống chính trị và khung pháp lý hiện hành. Trong bất kỳ trường hợp nào phải bao gồm: Quỹ Châu thổ và nguồn cung cấp của quỹ; các nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc châu Thổ; Chương trình Châu thổ sẽ được thành lập; Các qui định cho việc tìm kiếm các nguồn đất chiến lược; và công tác đền bù cho những mất mát và tổn thất về lợi ích do việc thực hiện những giải pháp của Chương trình Châu thổ gây ra.

Nguồn vốn và thực thi
Việc thực thi Chương trình Châu thổ của Hà Lan từ nay tới năm 2050 sẽ cần từ 1,2 tới 1,6 tỉ Euro mỗi năm và từ 0,9 tới 1,5 tỉ Euro mỗi năm trong giai đoạn 2050 – 2100. Công tác chống ngập lụt bờ biển trong Chương trình Châu thổ chủ yếu thực hiện nhờ biện pháp phun cát nuôi dưỡng bờ biển. Nếu biện pháp này được tăng cường để bờ biển của Hà Lan có thể phát triển ra biển thêm 1 km thì sẽ tạo ra những vùng đất mới phục vụ cho hoạt động giải trí và môi trường tự nhiên thì sẽ cần thêm từ 0,1 tới 0,3 tỉ Euro mỗi năm.
Các giải pháp Ủy ban kiến nghị sẽ có tác động đối với việc quy hoạch, phát triển và sử dụng những vùng đất, sẽ gây tác động đối với nhiều ngành và quyền lợi. Việc tăng cường an toàn nguồn nước, bảo vệ phòng chống lũ lụt và đảm bảo cung cấp nước sạch sẽ quyết định việc lựa chọn sử dụng đất do đó sẽ tác động đến Nông nghiệp và tự nhiên, phát triển đô thị, hạ tầng, cảng biển và các thành phần khác của nền kinh tế. Do đó đòi hỏi phải có sự chỉ đạo quyết liệt từ phía chính phủ, lãnh đạo các địa phương.
IV.Nhận thức về công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai phục vụ phát triển kinh tế xã hội của Hà Lan và ứng dụng vào Việt Nam.
Sau quá trình tìm hiểu và tham quan thực tế đoàn chúng tôi có những nhận thức về công tác thủy lợi của Hà Lan và những gì cần học tập:
1.Công tác thủy lợi phòng chống thiên tai ở Hà Lan có truyền thống từ lâu đời và trở thành quốc sách.
  - Tầm nhìn xa về quy hoạch, chương trình và kế hoạch thực hiện từng bước rõ ràng. Chính quyền nào cũng phải thực hiện theo quy hoạch và kế hoạch đã định sẵn.
  - Công tác thủy lợi phòng chống thiên tai đã trở thành luật của quốc gia, mọi ngành, mọi người đều tuân thủ thực hiện. Có tổ chức quyền lực chặt chẽ từ trung ương đến địa phương.
  - Tập hợp đầy đủ lực lượng của toàn xã hội cho công tác phòng chống lũ lụt, các nhà khoa học, các nhà doanh nghiệp và nhân dân lao động. Có đội ngũ khoa học kỹ thuật thủy lợi hùng hậu, giỏi về chuyên môn và các ý tưởng sáng tạo luôn được khuyến khích áp dụng.
Nếu ta học tập cách tổ chức có quyền lực này của Hà Lan thì công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai chắc sẽ hiệu quả cao hơn. 
2. Hai nước đều có những đồng bằng thấp hơn mực nước biển, nhưng Hà Lan thấp hơn nhiều (từ 3-6m). Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng của ta có nhiều điểm tương đồng với đồng bằng của Hà Lan, nhưng điều kiện còn thuận lợi hơn. Như vậy việc bảo vệ hai đồng bằng của Việt Nam trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng là hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy nhiên mức đảm bảo chống lũ hiện tại của Hà Lan cao hơn của nước ta rất nhiều, trong thời gian tới mức đảm bảo chống lũ ở một số khu vực của Hà Lan sẽ được nâng lên gấp 10 lần so với hiện nay, có nơi đưa lên tới tần suất 10.000 năm xuất hiện một lần (ở Việt Nam đa số ở mức 50-100 năm xuất hiện một lần, riêng sông Hồng sau khi hồ Sơn la vào hoạt động thì đạt mức 500 năm xuất hiện một lần).
3. Hệ thống đê kết hợp làm hệ thống đường giao thông hiện đại vừa tiết kiệm đầu tư, vừa tiết kiệm đất vừa thuận lợi cho quản lý khai thác. Quan điểm xây dựng đê thân thiện với môi trường có thể nghiên cứu áp dụng ở một số đoạn đê biển ở đồng bằng Sông Cửu long, nơi bãi biển vẫn tiếp tục được bồi đắp, ít bão và sóng lớn. Với hình thức đê này, kết hợp với việc trồng rừng ngập mặn và cỏ bảo vệ đê sẽ tạo ra một số ưu điểm như: Độ an toàn cao; gần gũi với thiên nhiên, bố trí giao thông thuận lợi, có thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp, có thể kết hợp bố trí vui chơi giải trí, hoạt động văn hóa và đô thị hóa.

 
4. Quan điểm sử dụng những vùng chậm lũ và phân lũ của Hà Lan, đã được áp dụng ở Việt Nam từ lâu và hiện vẫn đang có hiệu lực đối với các lưu vực sông như: lưu vực sông Hồng, sông Hoàng Long, sông Mã, sông Cả và chương trình sống chung với lũ ở đồng bằng sông Cửu long. Trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng, vẫn cần tiếp tục sử dụng quan điểm này, tuy nhiên trong thời gian tới cần nâng tầm cao hơn để chủ động hơn trong việc sống chung với lũ và đạt nhiều mực tiêu hơn như việc dự trữ nguồn nước ngọt và kết hợp tạo ra những vùng đa dạng sinh học phong phú.
5. Kỹ thuật xây dựng công trình của Hà Lan tiên tiến, độc đáo và sáng tạo: quy mô lớn nhất thế giới về các cống ngăn triều, kiểu cửa van cung phao trục đứng độc đáo nhất, phương pháp xử lý nền đặc biệt nhất, phương pháp thi công trụ pin chưa từng có trong kỹ thuật thủy lợi. Việc nghiên cứu ứng dụng cho các công trình ngăn sông lớn và các cống kết hợp với cầu giao thông là rất cần thiết.  
6. Về kết cấu công trình, Hà Lan chủ yếu vẫn sử dụng nguyên lý trọng lực để đặt trụ pin hoặc đặt cả đập xà lan. Điều đó hoàn toàn khác với các nước khác đang dùng móng cọc. Điều này cần được nghiên cứu về mặt hiệu ích kinh tế và điều kiện địa chất có thể áp dụng. Về cửa van chúng ta có thể học tập Hà Lan làm dạng van kéo đứng thuận lợi cho chế tạo lắp đặt và quản lý vận hành. 
7. Để ứng phó với BĐKH và nước biển dâng thì phải đắp đê ở các vùng thấp và xây cống ngăn các cửa sông. Các nước Anh, Mỹ, Đức và Italia cũng có những công nghệ xây dựng công trình ngăn sông hiện đại và phù hợp với điều kiện của ta. Vì vậy ta không chỉ học tập kinh nghiệm của Hà Lan và chỉ hợp tác với Hà Lan mà còn phải học tập và hợp tác với những nước khác để có thể ứng dụng có hiệu quả cho đất nước ta.
8. Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của Hà lan trong việc lập quy hoạch nhằm ứng phó với BBĐKH và nước biển dâng cho các vùng đồng bằng của cả nước là hết sức cần thiết và cấp bách. Đồng bằng sông Cửu Long được Hà Lan lựa chọn thực hiện đầu tiên theo Biên bản ký kết giữa Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT Việt Nam với Bộ Giao thông, Công chính và quản lý nước của Hà lan sẽ là bước đi quan trọng trong việc giúp Việt có kế hoạch tổng thể và dài hạn ứng phó với BĐKH và NBD ở ĐBSCL. Cuối tháng 3 vừa qua, Hà lan đã cử đoàn chuyên gia của Bộ Giao thông Công chính và quản lý nước, và Ủy ban Châu thổ phối hợp với Bộ NN&PTNT và Bộ TN&MT tổ chức hội thảo tại Cần Thơ, hai bên đã thống nhất về phương pháp tiếp cận.  
9. Để thực hiện quy hoạch tổng thể ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Hà Lan khẳng định lực lượng thực hiện chính là cán bộ của Việt Nam, bạn chỉ cử chuyên gia giúp ta về kinh nghiệm lập quy hoạch, kinh nghiệm thiết kế thi công công trình, kinh nghiệm về tổ chức bộ máy quản lý…Bạn không thể làm thay vì chỉ có ta mới hiểu sâu sắc điều kiện của đất nước ta.

Link down toàn bộ tài liệu: ThuyloiHaLan 


Theo wrd.gov.vn
SHARE
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Post a Comment