![]() |
Cá thu, một loại thủy sản có giá trị kinh tế cao ở Phú Quốc, Kiên Giang. Ảnh: Nguyễn Kiểm
|
Tiềm năng dồi dào
Theo
thống kê của Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) tại Hội nghị Tổng kết ngành thủy sản năm 2012 và bàn phương hướng
nhiệm vụ năm 2013 mới đây, sản lượng thủy sản cả nước năm 2012 ước đạt
5,8 triệu tấn (tăng 5,8% so với năm 2011) trong đó sản lượng thủy sản
nuôi trồng, khai thác đạt 2,67 triệu tấn (khai thác hải sản đạt 2,4
triệu tấn). Chỉ riêng cá ngừ đại dương với sản lượng 19.000 tấn, đạt giá
trị xuất khẩu 544,6 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả
nước năm 2012 đạt 6,1 tỷ USD.
Nguồn
lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.
Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị
kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển đã được
xác nhận có hơn 2000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị
kinh tế. Đến nay đã xác định được 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12
bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi. Ngoài
ra, dọc ven biển có hàng chục vạn héc-ta mặt nước có khả năng nuôi trồng
thủy sản nước mặn - lợ. Khai thác hải sản là lĩnh vực kinh tế đặc trưng
của biển và tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động đánh cá trực tiếp
và lao động dịch vụ nghề cá.
Theo
Tổng cục Thủy sản, tính đến nay, cả nước đã thành lập được 3.500 tổ, đội
sản xuất trên biển (khoảng 21.500 tàu cá) với 136 nghìn lao động tham
gia. Khai thác hải sản (bao gồm đánh bắt, nuôi trồng và chế biến) đã trở
thành một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao.
Làm thế nào để đánh thức tiềm năng?
Biển
Đông là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển có giá trị cao trên
thế giới, thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản, đồng thời là một trong 16
ngư trường lớn của thế giới và cũng chính là ngư trường truyền thống của
ngư dân Việt Nam. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm
và tạo nhiều điều kiện để phát triển nghề thủy sản. Đặc biệt Nhà nước
ta đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để đóng tàu đánh bắt xa bờ, tuy nhiên
chưa đem lại kết quả như mong đợi. Các nghề biển hướng tới tương lai và
gắn bó mật thiết với nghề thủy sản như khí tượng thủy văn, năng lượng
sóng và thủy triều, khai thác khoáng sản dưới lòng nước sâu, hóa chất và
dược liệu biển... chưa được nghiên cứu nhiều. Kỹ thuật tổng thể khai
thác kinh tế biển vẫn còn ở trình độ rất thấp. Về công tác quản lý biển,
đến nay Việt Nam chưa có một cơ quan Nhà nước để quản lý tổng hợp,
thống nhất về biển. Mặc dù ở cấp Trung ương gần đây đã có Tổng cục Biển
và Hải đảo Việt Nam trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhưng công
tác quản lý Nhà nước vẫn còn hạn chế. Hiện nay, có tới 15 bộ, ngành cùng
tham gia quản lý biển nên còn tình trạng chồng chéo, trong khi nhiều
khâu lại bị bỏ trống. Ở các địa phương chưa có bộ máy tổ chức đủ mạnh để
quản lý biển thống nhất nên vẫn rất lúng túng trong công tác quản lý
biển.
Trong
Chiến lược biển Việt Nam 2020, Đảng và Nhà nước đã xác định rất rõ vị
trí của ngành thủy sản và những yêu cầu định hướng đối với ngành thủy
sản. Theo PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục
Biển và hải đảo, để phát triển bền vững lĩnh vực nuôi trồng khai thác
thủy hải sản, chúng ta không chỉ cần tàu to, hiện đại mà quan trọng nhất
là cần phải có đội ngũ nhân lực phù hợp, được đào tạo bài bản. Cùng với
đó, công tác hậu cần, công tác dự báo ngư trường rất quan trọng và phải
đi trước một bước để góp phần giảm chi phí đánh bắt, tăng lợi nhuận.
Để đạt
được mục tiêu của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, chúng ta phải
xây dựng được một nền công nghệ biển hiện đại; phát triển được một nền
kinh tế biển hiệu quả, bền vững, có khả năng hội nhập quốc tế; có một
phương thức quản lý tổng hợp biển theo không gian và bảo đảm được an
ninh chủ quyền vùng biển. Trong đó, phương thức quản lý tổng hợp biển
theo không gian và công cụ quy hoạch không gian biển đang còn là những
vấn đề mới mẻ đối với không chỉ các nhà khoa học và quy hoạch, mà còn
đối với nhà quản lý và hoạch định chính sách của Việt Nam.
Quản
lý tổng hợp biển theo không gian đòi hỏi xác lập một cơ chế phối hợp
liên ngành trong quản lý biển và giải quyết đồng bộ các quan hệ phát
triển khác nhau, trong đó quan hệ giữa các mảng không gian cho phát
triển kinh tế biển và tổ chức không gian biển hợp lý cho phát triển kinh
tế biển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần đi trước
một bước.
Chiến
lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020, đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 1690/QĐ-TTg với mục tiêu đến năm 2020
kinh tế thủy sản đóng góp 30-35% GDP trong khối nông - lâm - ngư nghiệp,
tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 đến 10%/năm. Kim ngạch
xuất khẩu thủy sản đạt 8-9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5-7
triệu tấn, trong đó nuôi trồng chiếm 65-70% tổng sản lượng. Tạo việc làm
cho 5 triệu lao động nghề cá có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 3
lần so với hiện nay.
|
Theo NGUYỄN KIỂM-qdnd.vn
0 nhận xét:
Post a Comment