Rừng ngập mặn đóng vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ đê biển và cải tạo môi trường sinh thái. Vì
vậy, bài báo này trình bày tóm tắt phân bố rừng ngập mặn Việt Nam và vai trò
của nó trong việc bảo vệ các vùng ven biển, phân tích những nguyên nhân làm suy
thoái rừng ngập mặn và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng
ngập mặn nước ta.
1.
Đặt vấn đề
Bảo vệ đê biển và các vùng ven biển là vấn đề cấp thiết không chỉ đối với Việt
Nam mà còn đối với nhiều nước khác trên thế giới. Tại các nước phát triển đê
biển đã được hoàn thiện ở mức độ cao, tuy nhiên có thể thấy rằng không có công
trình nào đảm bảo tuyệt đối an toàn trước thiên tai. Vì vậy việc nghiên cứu các
giải pháp bảo vệ đê biển và vùng ven biển vẫn tiếp tục được mở rộng ở các nước
phát triển và đang phát triển. Một trong các biện pháp kỹ thuật có giá thành rẻ
mà lại rất hiệu quả là trồng cây chắn sóng. Khi cây ngập mặn phát triển tốt sẽ
tạo thành những hàng rào xanh bảo vệ các vùng ven biển. Vì vậy, nhận thức đúng
tầm quan trọng của rừng ngập mặn (RNM) là điều cần thiết để từ đó đề xuất các
giải pháp bảo vệ và sử dụng bền vững hệ sinh thái RNM.
Trong bài viết này, tác giả trình bày tóm tắt phân bố RNM ở Việt Nam và vai trò
của RNM trong việc bảo vệ các vùng ven biển, phân tích những nguyên nhân làm
suy thoái RNM và kiến nghị một số giải pháp nhằm bảo vệ, khôi phục và phát
triển RNM nước ta.
Dựa vào các yếu tố địa
lý, RNM Việt nam có thể chia ra làm 4 khu vực và 12 tiểu khu (theo Phan Nguyên
Hồng, 1999) như sau:
- Khu vực 1: Ven biển
Đông bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ sơn;
- Khu vực 2: Ven biển
đồng bằng Bắc bộ, từ mũi Đồ sơn đến mũi Lạch trường;
- Khu vực 3: Ven biển
Trung bộ, từ mũi Lạch trường đến mũi Vũng tàu;
- Khu vực 4: Ven biển
Nam bộ, từ mũi Vũng tàu đến mũi Nải – Hà tiên.
2.1 Khu vực 1: Ven
biển Đông bắc
Bờ biển Đông bắc có các đặc điểm địa mạo, thuỷ văn, khí hậu phức tạp; có những
mặt thuận lợi cho sự phân bố của RNM, nhưng cũng có những yếu tố hạn chế sự
sinh trưởng và mức độ phong phú của các loài cây, trong đó nhiệt độ đóng vai
trò quan trọng. Địa hình chia cắt phức tạp, có nhiều đảo chắn ở
ngoài, tạo nên các vịnh ven bờ và các cửa sông hình phễu, phù sa được giữ lại
thuận lợi cho cây ngập mặn sinh sống.
Khu vực 1 có hệ thực vật ngập mặn tương đối phong phú, gồm những
loài chịu mặn cao, không có các loài ưa nước lợ điển hình, trừ các bãi lầy nằm
sâu trong nội địa như Yên Lập và một phần phía nam sông Bạch đằng do chịu ảnh
hưởng mạnh của dòng chảy. Đáng chú ý là, những loài cây ngập mặn phổ biến ở đây
như đâng, vẹt dù, trang lại rất ít gặp ở RNM Nam bộ. Có những
loài chỉ phân bố ở khu vực này như chọ, hếp Hải nam. Ngược
lại, nhiều loài phát triển mạnh ở Nam Bộ lại không có mặt ở khu vực 1. Khu vực
này được chia làm 3 tiểu khu như sau:
- Tiểu khu 1: từ Móng
cái đến Cửa Ông;
- Tiểu khu 2: từ Cửa
Ông đến Cửa Lục (dài khoảng 40km);
- Tiểu khu 3: từ
Cửa lục đến mũi Đồ Sơn (dài khoảng 55 km).
2.2 Khu vực 2: Ven
biển đồng bằng Bắc bộ
Khu vực này nằm trong phạm vi bồi tụ chính của sông Hồng, sông Thái
Bình và các phụ lưu. Hình dạng và xu thế phát triển của khu vực 2
không đồng nhất do xuất hiện cả quá trình bồi tụ và xói lở. Thời
gian có nước lợ ở cửa sông kéo dài, độ mặn thấp.
Tác động lớn nhất là chế độ gió. Do nằm trong khu vực chịu ảnh
hưởng trực tiếp của bão, không có các đảo che chắn ngoài, cho nên
bão và gió mùa đông bắc đã gây ra sóng lớn, làm cho nước biển dâng.
Trừ phần biển phía bắc được mũi Đồ Sơn che chắn một phần nên cây
ngập mặn có thể tái sinh, còn phía nam trong điều kiện tự nhiên không
có RNM.
Quần xã cây ngập mặn gồm những loài ưa nước lợ, trong đó loài ưu
thế nhất là bần chua phân bố ở vùng cửa sông (Kiến
Thụy, Tiên Lãng), cây cao 5 ÷ 10m. Dưới tán của bần là sú và ô
rô, tạo thành tầng cây bụi; ở một số nơisú và ô
rô phát triển thành từng đám.
Để bảo vệ đê, nhân dân ven biển Đồ Sơn (Hải Phòng), Thái Thụy, Tiền Hải
(Thái Bình), Giao Thủy (Nam Định) đã trồng được những dải rừng trang,
bần chua gần như thuần loại ở phía ngoài đê. Những rừng trang với
cây cao 4 ÷ 5m, đường kính 5 ÷ 10cm đã hình thành dọc theo đê biển.
Việc trồng trangcũng đã tạo điều kiện cho một số loài
tái sinh tự nhiên như sú, bần phát triển và là môi trường
sống cho nhiều loại hải sản và chim di cư. Khu vực này được chia làm 2
tiểu khu.
- Tiểu khu 1: từ mũi
Đồ Sơn đến cửa sông Văn Úc;
- Tiểu khu 2: từ cửa
sông Văn Úc đến cửa Lạch Trường, nằm trong khu vực bồi tụ của hệ sông
Hồng.
Trừ một phần phía bắc từ Diễn Châu (Nghệ An) trở ra, còn nói chung
bờ biển khu vực này chạy song song với dãy Trường Sơn và là một dải
đất hẹp. Do địa hình phức tạp, có chỗ núi ăn ra sát biển (Quảng
Bình, Quảng Trị), có chỗ tác động của biển khá nổi bật, tạo nên
các cồn cát di động cao to hoặc các vụng, phá.
Do địa hình trống trải sóng lớn, bờ dốc, nên nói chung không có RNM
dọc bờ biển, trừ các bờ biển hẹp phía tây các bán đảo nhỏ ở Nam
Trung Bộ như bán đảo Cam Ranh, bán đảo Quy Nhơn. Chỉ ở phía trong các
cửa sông, cây ngập mặn mọc tự nhiên, thường phân bố không đều, do ảnh
hưởng của địa hình và tác động của cát bay.
Thảm thực vật nước lợ thường phân bố ở phía trong cách
cửa sông 100 ÷ 300m. Ví dụ như rừng bần chua phân bố dọc
theo sông ở xã Hưng Hòa (thành phố Vinh), nhiều cây có đường kính 1 ÷
1,3m. Từ Xuân Hội đến Xuân Tiến (Hà Tĩnh), rừng bần chua có
kích thước cây khá lớn: cao trung bình 6 ÷ 8m, đường kính 20 ÷ 30cm.
Dựa vào đặc điểm địa mạo, thủy văn, có thể chia bờ biển
Trung bộ làm 3 tiểu khu:
- Tiểu khu 1: từ Lạch
Trường đến mũi Ròn;
- Tiểu khu 2: từ mũi
Ròn đến mũi đèo Hải Vân;
- Tiểu khu 3: từ mũi đèo
Hải Vẫn đến mũi Vũng Tàu.
Vùng ven biển Nam Bộ có địa hình thấp và bằng phẳng. Hai hệ thống
sông lớn là sông Đồng Nai và sông Cửu Long có nhiều phụ lưu và kênh rạch chằng
chịt, hàng năm đã chuyển ra biển hàng triệu tấn phù sa cùng với lượng nước ngọt
rất lớn.
Nói chung, các điều kiện sinh thái ở khu vực 4 thuận lợi
cho các thảm thực vật ngập mặn sinh trưởng và phân bố rộng. Thêm vào đó
khu vực này gần các quần đảo Malaysia và Indônêsia là nơi xuất phát của cây
ngập mặn. Do đó mà thành phần của chúng phong phú nhất và kích thước cây lớn
hơn các khu vực khác ở nước ta.
Trong các kênh rạch ở khu vực này, nồng độ muối vào mùa khô cao
hơn ở cửa sông chính, do đó thành phần cây ưa mặn chiếm ưu thế, chủ yếu là đước,
vẹt, su, dà. Dọc các triền sông phía trong, quần thể mấm lưỡi đòngphát
triển cùng với loài dây leo và cốc kèn. Đi sâu vào nội địa thì bần
chua thay thế dần, có chỗ dừa nước mọc tự nhiên hoặc
được trồng thành bãi lẫn với mái dầm, một loài cây chỉ thị cho nước
lợ.
Có thể chia khu vực ven biển Nam Bộ thành 4 tiểu khu:
- Tiểu khu 1: từ mũi
Vũng Tàu đến cửa sông Soài Rạp (Ven biển Đông Nam Bộ);
- Tiểu khu 2: từ cửa
sông Soài Rạp đến cửa sông Mỹ Thanh (ven biển đồng bằng sông Cửu Long);
- Tiểu khu 3: từ cửa
sông Mỹ Thanh đến cửa sông Bảy Háp (Ttây Nam bán đảo Cà Mau);
- Tiểu khu 4: từ cửa
sông Bảy Háp (mũi Bà Quan) đến mũi Nải – Hà Tiên (bờ biển phía tây bán đảo Cà
Mau).
RNM có chức năng chống lại sự tàn phá của sóng thần nhờ hai phương thức khác
nhau. Thứ nhất, khi năng lượng sóng thần ở mức trung bình, những cây ngập mặn
vẫn có thể đứng vững, bảo vệ hệ sinh thái của chính mình và bảo vệ cộng đồng
dân cư sinh sống đằng sau chúng. Có được như vậy là vì các cây ngập mặn mọc đan
xen lẫn nhau, rễ cây phát triển cả trên và dưới mặt đất cộng với thân và tán lá
cây cùng kết hợp để phân tán sức mạnh của sóng thần. Thứ hai, khi năng lượng
sóng thần đủ lớn để có thể cuốn trôi những cánh RNM thì chúng vẫn có thể hấp
thụ nguồn năng lượng khổng lồ của sóng thần bằng cách hy sinh chính mình để bảo
vệ cuộc sống con người. Rễ cây ngập mặn có khả năng phát triển mạnh mẽ cả về
mức độ rậm rạp và sự dàn trải. Khi cây ngập mặn bị đổ xuống thì rễ cây dưới mặt
đất tạo ra một hệ thống dày đặc ngăn cản dòng nước.
Tổ chức “Friend of the Earth” cho rằng, bảo vệ những cánh RNM là cách giải
quyết duy nhất để bảo vệ dân cư vùng ven biển chống lại sóng và các đe doạ khác
trong tương lai (Scheer 2005). Theo khảo sát của IUCN (2005) tại những
vùng bị tác động của sóng thần cho thấy: những vùng ven biển có RNM rậm, có các
vành đai cây phòng hộ như phi lao, dừa, cọ thì
thiệt hại về người và tài sản ít hơn rất nhiều so với những nơi mà các hệ sinh
thái ven biển bị suy thoái, hoặc chuyển đổi đất sang mục đích sử dụng khác như
nuôi tôm hay xây dựng khu du lịch.
Từ đầu thế kỷ XX, dân cư ở các vùng ven biển phía Bắc đã biết trồng một số loài
cây ngập mặn như trang và bần chua để chắn
sóng bảo vệ đê biển và vùng cửa sông. Mặc dù thời kỳ đó đê chưa được bê tông
hoá và kè đá như bây giờ nhưng nhờ có RNM mà nhiều đoạn đê không bị vỡ khi có
bão vừa (cấp 6 ÷ 8).
Ở một số địa phương thực hiện nghiêm túc chương trình trồng rừng 327 của chính
phủ thì đê điều, đồng ruộng được bảo vệ tốt. Năm 2000, cơn bão số 4 (Wukong)
với sức gió cấp 10 đổ bộ vào huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nhờ các dải RNM
trồng ở 9 xã vùng nước lợ nên hệ thống đê sông Nghèn không bị hư hỏng. Nếu
không trồng RNM chắn sóng thì đê Đồng Môn đã bị vỡ và thị xã Hà Tĩnh đã bị ngập
sâu, thiệt hại do cơn bão này gây ra sẽ rất nặng nề.
Tháng 7 năm 1996, khi cơn bão số 2 (Frankie) với sức gió 103 ÷ 117km/s đổ bộ
vào huyện Thái Thuỵ (Thái Bình) nhờ có dải RNM bảo vệ nên đê biển và nhiều bờ
đầm không bị hư hỏng, trong lúc đó huyện Tiền Hải do phá phần lớn RNM nên các
bờ đầm đều bị xói lở hoặc bị vỡ. Năm 2005, vùng ven biển huyện Thái Thuỵ tuy
không nằm trong tâm bão số 7 (Damrey) nhưng sóng cao ở sông Trà Lý đã làm sạt
lở hơn 650m đê nơi không có RNM ở thôn Tân Bồi, xã Thái Đô trong lúc phần lớn
tuyến đê có RNM ở xã này không bị xạt lở vì thảm cây dày đặc đã làm giảm đáng
kể cường độ sóng. Ở Thái Thuỵ, có 10,5km đê biển được bảo vệ bởi RNM
hầu như không phải sửa chữa, tu bổhàng năm kể từ khi
RNM trưởng thành, khép tán.
Một số địa phương có RNM phòng hộ nguyên vẹn như các xã ở Đồ Sơn – Hải Phòng,
Giao Thuỷ - Nam Định, Hậu Lộc – Thanh Hoá, ở những nơi này đê biển hầu như
không bị sạt lở trong các cơn bão số 2, 6, 7 năm 2005.
Rễ cây ngập mặn chằng chịt, đặc biệt là những quần thể thực vật tiên phong mọc
dày đặc có tác dụng làm giảm vận tốc dòng chảy tạo điều kiện cho trầm tích bồi
tụ nhanh hơn ở các vùng cửa sông ven biển. Chúng vừa ngăn chặn có hiệu quả hoạt
động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm cho trầm tích lắng
đọng. Ví dụ như, hàng năm vùng cửa sông Hồng tại Ba Lạt tiến ra biển 60÷70m,
một số xã ở tỉnh Tiền giang, Bến tre đất bồi ra biển 25÷30m, Trà vinh, Sóc
trăng 15÷30m, Bạc liêu, Cà mau 30÷40m (Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Nam
Bộ, 2006).
Ở vùng cửa sông lớn như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, phù sa thường ngưng
đọng trên lòng sông và ngoài cửa sông tạo nên những hòn đảo nổi. Nếu điều kiện
thuận lợi thì chỉ sau một thời gian, các loài cây ngập mặn tiên phong sẽ đến cư
trú tạo môi trường cho những loài cây đến sau và đất bồi được nâng dần lên, như
Cồn Ngạn, Cồn Lu ở Giao Thủy, Nam Định, Cồn Vành ở Thái Bình, Cồn Ngoài và Cồn
Trong ở Tây Nam mũi Cà Mau.
Những nơi trồng và bảo vệ tốt RNM thì bờ biển và đê không bị xói lở, thiệt hai
do thiên tai ở mức rất thấp. Ví dụ như: đoạn bờ Bằng La, Đại Hợp (Hải Phòng)
trước đây không có RNM thì bị xói lở rất mạnh. Từ khi có các dải RNM phòng hộ
do Hội chữ thập đỏ Nhật Bản hỗ trợ (1997 – 2005) thì không những không bị xói
lở mà trong các cơn bão lớn năm 2005 đã bảo vệ toàn vẹn đê quốc gia.
Ngoài ra, RNM còn có tác dụng hạn chế xâm nhập mặn. Nhờ có RNM mà quá trình xâm
nhập mặn diễn ra chậm và trên phạm vi hẹp, vì khi triều cao, nước đã đã lan toả
vào trong những khu RNM rộng lớn; hệ thống rễ dày đặc cùng với thân cây đã làm
giảm tốc độ dòng triều, tán cây hạn chế tốc độ gió.
RNM góp phần điều hòa khí hậu trong vùng, các quần xã cây ngập mặn là một tác
nhân làm cho khí hậu dịu mát hơn. Cũng giống như các loài thực vật khác, cây
ngập mặn và tảo, rêu trong nước góp phần hấp thu CO2 và thải O2 qua
quá trình quang hợp. Chẳng hạn như RNM Cần giờ, TP Hồ Chí Minh được xem như lá
phổi xanh của thành phố.
Các chất độc hại và ô nhiễm từ các khu công nghiệp, đô thị thải vào sông suối,
hòa tan trong nước hoặc lắng xuống đáy được nước sông mang ra các vùng cửa sông
ven biển. RNM hấp thụ các chất này và tạo ra các hợp chất ít độc hại hơn đối
với con người.
Ở một số nơi sau khi thảm thực vật ngập mặn bị tàn phá thì cường độ bốc hơi
nước tăng, làm cho độ mặn của nước và đất tăng theo.
Ngoài ra, RNM là nơi thu hút nhiều loài chim nước và chim di cư, tạo thành các
sân chim lớn với hàng vạn con và dơi quạ. RNM Việt Nam có nhiều loài chim quí
hiếm của thế giới như các loài cò mỏ thìa, già dẫy, hạc cổ trắng...(Võ Quý,
1984).
Trong RNM còn có những loài cây quí hiếm như cây cóc hồng. Đặc
biệt, các chủng vi sinh vật RNM còn mang các thông tin di truyền tồn tại cho
đến ngày nay qua đấu tranh sinh tồn hàng triệu năm. Đó là nguồn gen quí cho
việc cải thiện các giống vật nuôi và cây trồng, thuốc chữa bệnh trong tương
lai.
Quân đội Mỹ đã dùng bom
đạn, chất diệt cỏ và chất làm rụng lá cây với liều lượng cao để hủy diệt rừng,
hòng phá vỡ các căn cứ kháng chiến của ta ở Nam Bộ. Vì vậy, một diện tích lớn
RNM Nam Bộ đã bị huỷ diệt, kèm theo đó là tổn thất về tăng trưởng của cây do mất
rừng trong thời gian dài cho đến khi rừng khép tán và tỉa thưa (10÷12năm).
Ở miền Nam sau chiến tranh, nhân dân ven biển trở về quê cũ cùng
với sự di cư ồ ạt từ nhiều nơi khác đến vùng RNM nên nhu cầu về xây dựng, củi, than
đun nấu tăng gấp bội, dẫn đến việc phá hủy các khu rừng quí giá kể cả rừng mới
trồng sau chiến tranh. Ở một số vùng khác do quản lý kém nên rừng bị chặt phá,
nhiều chỗ không còn vết tích hoặc chỉ còn những cây nhỏ. Mặt khác, việc khai
thác của ngành lâm nghiệp tăng hàng năm trong lúc tài nguyên giảm sút, khiến
cho rừng ngày càng kiệt quệ.
Do nhu cầu về tôm xuất khẩu rất lớn trong lúc sản lượng đánh bắt giảm sút, vào
những năm cuối thập kỷ 80 và đấu thập kỷ 90 của thế kỷ XX ở hầu hết các vùng
ven biển nước ta, nhân dân đã phá các khu RNM xanh tốt (Cà Mau, Sóc Trăng…) và
các khu rừng phòng hộ tự nhiên hoặc trồng (Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình, Khánh Hòa...) để làm đầm nuôi tôm quảng canh thô sơ. Ở nhiều địa phương
RNM đã biến mất, thay vào đó là các đầm tôm và đất hoang hóa.
- Đẩy mạnh
việc tuyên truyền phổ cập tới các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư vùng ven
biển có RNM về vai trò và giá trị của hệ sinh thái RNM và quản lý, sử dụng bền
vững RNM vì lợi ích trước mắt và lâu dài;
- Đẩy mạnh các hoạt động
nghiên cứu khoa học về hệ sinh thái RNM, tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế
trong nghiên cứu, phối hợp giữa nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho
sản xuất;
- Củng cố và hoàn thiện
hệ thống Ban quản lý các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng phòng
hộ và đảm bảo hoạt động có hiệu quả; Củng cố và hoàn thiện hoạt động của các
lâm ngư trường;
- Đẩy mạnh bảo vệ hệ
sinh thái RNM dựa trên các quy hoạch có tính pháp lý và khoa học; cương quyết
ngăn chặn các hoạt động phá RNM để nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử dụng vào các mục
đích khác;
- Lập kế hoạch phục hồi
và trồng mới RNM theo từng giai đoạn 5 năm, xác định rõ địa điểm và phương thức
phục hồi phù hợp, hiệu quả;
-
Giao cho các HTX nông nghiệp nhận khoán trồng và chăm sóc RNM ở các bãi bồi và trong các đầm nuôi tôm bị thoái hoá. Sau 3 năm rừng trồng được nghiệm thu và bàn giao cho UBND các xã quản lý theo quy
chế rừng cộng đồng; không nên giao rừng phòng hộ cho cá nhân quản lý;
- Cần chọn một số RNM
điển hình đại diện cho từng vùng sinh thái làm khu bảo tồn để bảo vệ các nguồn
gen thực vật và động vật vùng triều;
- Thực hiện nhà nước và
nhân dân cùng làm, xây dựng điện, đường, trường, trạm giúp người dân nhanh
chóng ổn định và từng bước cải thiện cuộc sống trên các vùng ven biển.
6. Kết luận
Việt Nam có trên 3250km bờ biển, với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cây ngập
mặn sinh trưởng. Vai trò của RNM trong việc bảo vệ đê biển, bảo vệ đất bồi,
chống xói lở, hạn chế xâm nhập mặn, cải tạo môi trường sinh thái vàbảo
vệ nguồn lợi thuỷ sản đã được khẳng định. Vì vậy, cần có những giải pháp
thích hợp nhằm đẩy mạnh việc bảo vệ, khôi phục và phát triển hệ sinh thái RNM,
sử dụng hợp lý RNM theo hướng phát triển bền vững, đảm bảo các chức năng phòng
hộ của rừng và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái RNM, đáp ứng các yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường vùng ven biển.
The Role of Mangrove
Forest is Protecting Sea Dykes and All of the Coastal Areas in Vietnam
Summary: The Mangrove forest plays an important role in the protection of
coastal dykes and improving ecological environments. Hence, this newspaper
summarizes the distribution of Vietnam mangrove forest and its role of
protecting the seashore region, analyses the cause to degrade mangrove forest
and suggests some solutions of protecting and developing mangrove forests in
Vietnam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Nguyên Hồng,
Rừng ngập mặn Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội – 1999.
2. Phan Nguyên Hồng và
nnk, Vai trò của hệ sinh thái rừng ngập mặn và rạn san hô trong việc giảm nhẹ
thiên tai và cải thiện cuộc sống ở vùng ven biển, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà
nội – 2007.
3. Phan Nguyên Hồng,
Lịch sử nghiên cứu đất ngập nước ven biển Việt Nam, Hà nội – 2004.
4. Nguyễn Hoàng Trí,
Sinh thái học rừng ngập mặn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội – 1999.
5. Cục quản lý đê điều
và phòng chống lụt bão, Tổng quan đê biển Việt nam, Hà nội – 2005.
TS. HỒ VIỆT HÙNG
Bộ môn Thuỷ lực - Đại học Thuỷ lợi
Theo lib.wru.vn
Nếu chúng ta phát triển được hệ thống ngăn măn như thế này thì các ngành nghề khác cũng phát triển như: giup viec nha theo gio, vận chuyển, van chuyen, van chuyen hang hoa, vận chuyển hàng hóa, vận chuyển bắc nam, vận chuyển đường sắt, vận tải hàng hóa, ống gió, ong gio, cua gio, cửa gió, dịch vụ seo tốt nhất, dịch seo tại hà nội.thiet ke web mien phi.
ReplyDelete