Test Footer 2

Tóm tắt kết quả Hội nghị lần thứ 18 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP18) và Hội nghị lần thứ 8 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP8)


    Thứ trưởng Trần Hồng Hà phát biểu tại COP 18 (Ảnh Hoàng Mạnh Hòa)
Hội nghị COP18 và CMP8 đã được tổ chức tại Doha, Qatar, từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 07 tháng 12 năm 2012. Tham dự COP18, CMP8 và các Khóa họp liên quan có 9.004 đại biểu, trong đó có 4.356 quan chức Chính phủ đến từ 195 nước, 3.965 người từ các cơ quan của Liên hợp quốc, các Tổ chức liên Chính phủ, Tổ chức phi Chính phủ và 683 người từ các Cơ quan thông tấn báo chí. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-Moon cũng đến dự và phát biểu tại Hội nghị. Trong những năm qua, cộng đồng quốc tế đã trải qua hàng trăm cuộc đàm phán chính thức và không chính thức giữa các nước, các nhóm nước, các nhóm công tác nhằm thảo luận và xây dựng thỏa thuận, khung pháp lý mới ứng phó với biến đổi khí hậu cho các thời kỳ sau năm 2012. Quá trình đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu toàn cầu được tiến hành theo 02 hướng: hướng Nghị định thư Kyoto để xây dựng văn bản toàn cầu mang tính ràng buộc pháp lý đối với các nước phát triển nhằm cắt giảm phát thải khí nhà kính định lượng với tỷ lệ kỳ vọng cao hơn cho các thời kỳ sau năm 2012 và hướng hợp tác dài hạn nhằm thực hiện Công ước khí hậu nêu trong Lộ trình Bali được thông qua vào năm 2007 với các nội dung chính ghi trong Kế hoạch hành động Bali bao gồm quan điểm chính hợp tác dài hạn, thích ứng, giảm nhẹ, cơ chế tài chính, chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực. 
Hội nghị lần này tại Doha tập trung thảo luận, xem xét nhằm đưa ra quyết định về các điểm chủ yếu như: (1) Thống nhất xây dựng Thỏa thuận quốc tế mới mang tính ràng buộc pháp lý ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu để hoàn thành muộn nhất vào năm 2015 và có hiệu lực thi hành vào năm 2020; (2) Xác định rõ nội dung, thời gian của thời kỳ cam kết lần thứ hai của Nghị định thư Kyoto, không để khoảng trống giữa thời kỳ cam kết lần thứ nhất và thời kỳ cam kết lần thứ hai, xác định một số bổ sung, sửa đổi Nghị định thư Kyoto trong hoàn cảnh mới; (3) Các nước phát triển chuyển đổi các cam kết giảm phát thải khí nhà kính định lượng (QELROs) thành các mục tiêu hạn chế và giảm phát thải khí nhà kính định lượng (QELRCs) với tỷ lệ cắt giảm phát thải khí nhà kính định lượng kỳ vọng cao hơn trong các thời kỳ cam kết sau năm 2012 để thực hiện mục tiêu giữ nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng dưới 2oC vào cuối thế kỷ này cũng như thể hiện trách nhiệm rõ ràng trong việc cung cấp tài chính mới, bổ sung và chuyển giao công nghệ mới, tăng cường năng lực cho các nước đang phát triển trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu; (4) Xem xét trách nhiệm cắt giảm phát thải khí nhà kính định lượng của các nước phát triển, không tham gia thời kỳ cam kết lần thứ hai của Nghị định thư Kyoto; (5) Thống nhất các biện pháp và hành động ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu đã được đưa ra tại Lộ trình Bali năm 2007; (6) Xem xét và quyết định nguồn tài chính dài hạn cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2013-2020 và (7) Xây dựng, thực hiện các hành động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMAs) của các nước đang phát triển. Hội nghị COP18 và CMP8 có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ cam kết lần thứ nhất (2008-2012), đồng thời chuẩn bị bắt đầu thời kỳ cam kết lần thứ hai (bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2013), các thời kỳ kế tiếp của Nghị định thư Kyoto và chuyển tiếp Kế hoạch hành động Bali từ giai đoạn hình thành sang giai đoạn thực hiện một cách đầy đủ hơn. Tuy nhiên, tại COP18 và CMP8, quan điểm giữa các nhóm nước, đặc biệt giữa nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển vẫn còn nhiều khác biệt. Hội nghị COP18, CMP8 diễn ra căng thẳng và phải kéo dài thêm 01 ngày so với chương trình đề ra. Với sự nỗ lực lớn của tất cả các Bên tham gia Hội nghị, trong đó có sự thu xếp tích cực của nước chủ nhà, Hội nghị đã kết thúc vào tối ngày 08 tháng 12 năm 2012 và đã thông qua một gói quyết định được coi là “Hướng tiếp cận Khí hậu Doha” (Doha Climate Gateway), trong đó một số kết quả quan trọng sẽ mở ra một giai đoạn mới sau năm 2012 với những nội dung chính như sau:
1. Các Bên thống nhất thời kỳ cam kết lần thứ hai của Nghị định thư Kyoto sẽ kéo dài 08 năm bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2020. Yêu cầu các Bên thuộc Phụ lục I của Công ước khí hậu (các nước phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi) phải đưa ra các cam kết cắt giảm và hạn chế phát thải khí nhà kính định lượng (QELRCs) thay cho các mục tiêu cắt giảm và hạn chế phát thải khí nhà kính định lượng trước đây (QELROs) để cắt giảm ít nhất 18% tổng lượng phát thải khí nhà kính dưới mức năm 1990 trong thời kỳ từ năm 2013 đến năm 2020 và chậm nhất đến năm 2014 sẽ phải xem xét lại QELRCs cho thời kỳ cam kết lần thứ hai và có thể tăng kỳ vọng cắt giảm phát thải khí nhà kính của QELRCs ít nhất từ 25 - 40% tổng lượng phát thải khí nhà kính dưới mức năm 1990 đến năm 2020. Tất cả các Bên thuộc Phụ lục I của Công ước khí hậu đều có thể tham gia vào các dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM), các dự án Đồng thực hiện (IJ) và các dự án Mua bán quyền phát thải (ET) đang triển khai hoặc mới, nhưng chỉ những Bên đã đưa ra QELRCs cho thời kỳ cam kết lần thứ hai mới có quyền chuyển nhượng và nhận tín chỉ các-bon trong thời kỳ cam kết lần thứ hai. Tất cả các nước phải sớm nâng cao kỳ vọng về cắt giảm phát thải khí nhà kính để đạt mục tiêu giữ nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng dưới 2oC vào cuối thế kỷ này so với thời kỳ tiền công nghiệp. Thống nhất kết thúc công việc của Nhóm công tác theo hướng Nghị định thư Kyoto (AWG-KP) và Nhóm công tác về hợp tác dài hạn theo hướng Công ước khí hậu (AWG-LCA). Bổ sung thêm khí Nitrogen trifluoride (NF3) là khí nhà kính bị kiểm soát bắt đầu từ thời kỳ cam kết lần thứ hai của Nghị định thư Kyoto. Bổ sung Ca-dắc-xtan vào Phụ lục B của Nghị định thư Kyoto. Các dự án CDM tại các nước kém phát triển tiếp tục được miễn đóng lệ phí vào Quỹ thích ứng.
2. Tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán để thông qua Thỏa thuận quốc tế mới mang tính ràng buộc pháp lý về ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu tại COP21 vào năm 2015 và Thỏa thuận này sẽ có hiệu lực thi hành từ năm 2020.
3. Tôn trọng nguyên tắc “bình đẳng, trách nhiệm chung nhưng có phân biệt và phù hợp với điều kiện quốc gia” của Công ước khí hậu và việc cung cấp tài chính, chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực cho các nước đang phát triển trong việc triển khai các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ.
4. Kéo dài chương trình làm việc về kế hoạch tài chính dài hạn thêm 01 năm và kết thúc vào năm 2013 nhằm yêu cầu các nước phát triển nỗ lực xác định cách thức huy động mỗi năm 100 tỷ USD cho giai đoạn từ nay đến năm 2020 một cách rõ ràng, minh bạch để giúp các nước đang phát triển xây dựng và thực hiện các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu. Trụ sở của Quỹ khí hậu xanh đặt tại thành phố Songdo, Hàn Quốc và sớm ban hành quy định hành chính và pháp lý của Quỹ.
5. Hội nghị các Bên Công ước khí hậu lần thứ 19 (COP19) sẽ ban hành văn bản hướng dẫn về Quỹ khí hậu xanh và văn bản xác định mối quan hệ làm việc giữa COP và Quỹ khí hậu xanh. Hoan nghênh Đan Mạch, Pháp, Nhật Bản, Na Uy, Anh đóng góp 4.554.000 USD cho ngân sách hoạt động hành chính của Quỹ khí hậu xanh. Tại cuộc họp Ban bổ trợ về thực hiện của Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto lần thứ 38 (SBI 38), Hội đồng quản trị Quỹ thích ứng sẽ báo cáo về thực trạng nguồn tài chính để CMP9 xem xét, quyết định việc đa dạng hóa nguồn thu tài chính của Quỹ thích ứng. Hội nghị COP19 cũng sẽ thành lập cơ quan chuyên trách về phòng ngừa, giảm tổn thất, thiệt hại do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu tại các nước đang phát triển, đặc biệt tại các nước dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu.
6. Ủy ban điều hành công nghệ (TEC) sớm đưa ra báo cáo về xác định rào cản phát triển, chuyển giao công nghệ và liên hệ với các cơ quan liên quan nhằm có biện pháp giúp các nước đang phát triển đánh giá nhu cầu công nghệ và ứng dụng các công nghệ thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa TEC với Trung tâm và Mạng lưới Công nghệ khí hậu (CTCN). Trụ sở làm việc của Trung tâm công nghệ khí hậu (CTC) do UNEP bố trí.
7. Đánh giá cao sự thành công của Cơ chế phát triển sạch (CDM) trong thời kỳ cam kết lần thứ nhất của Nghị định thư Kyoto với trên 5.200 dự án CDM và trên 50 Chương trình hoạt động (PoA) đã được đăng ký với khoảng 01 tỷ Chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CERs) được cấp và hơn 215 tỷ USD đang được đầu tư. Đề nghị Ban chấp hành quốc tế về CDM (EB) xem xét lại và đơn giản hóa các thể thức, thủ tục về CDM, hoàn thiện đường cơ sở, phương pháp luận để khuyến khích các nước tiếp tục xây dựng, thực hiện các hoạt động về CDM. Khuyến khích các Bên tiếp cận, xây dựng và thực hiện các cơ chế thị trường và phi thị trường cũng như cơ chế mới dựa trên thị trường nhằm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
8. SBI sớm xây dựng hướng dẫn về đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) phục vụ việc xây dựng và thực hiện NAMAs. Thành lập chương trình công tác các năm 2013 và 2014 để hướng dẫn đa dạng hóa NAMAs và xác định phương pháp luận, nhu cầu hỗ trợ về tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực cho việc xây dựng, triển khai NAMAs. Các nước đang phát triển sớm cung cấp thông tin về NAMAs cho Ban Thư ký. Ban Thư ký cần hoàn thành Hệ thống đăng ký NAMA trực tuyến, chậm nhất là 02 tháng trước COP19.
9. Ban bổ trợ về tư vấn khoa học và công nghệ (SBSTA) phối hợp với SBI thiết lập chương trình làm việc để đưa ra các phương pháp luận, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động REDD+ và trình COP19 xem xét, quyết định.
10. Về phát thải khí nhà kính trong hoạt động giao thông hàng không và hàng hải quốc tế, vấn đề này sẽ được xem xét chủ yếu thông qua hợp tác đa phương trong khuôn khổ Tổ chức Hàng không Dân dụng quốc tế (ICAO) và Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO).
11. Thống nhất Hội nghị COP19, CMP9 sẽ được tổ chức tại Vác-sa-va, Ba Lan vào cuối năm 2013; Hội nghị COP20, CMP20 sẽ được tổ chức tại Châu Mỹ vào năm 2014.
Đoàn Việt Nam (gồm đại diện các Bộ: Tài nguyên và Môi trường; Ngoại giao; Kế hoạch và Đầu tư; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công Thương; Giao thông vận tải) do Trưởng Ban công tác đàm phán của Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà làm Trưởng đoàn, đã tham dự các phiên họp của COP18, CMP8 và các Khóa họp liên quan. Trong bài phát biểu tại phiên họp cấp cao, Trưởng đoàn Việt Nam đã thông báo các hoạt động chủ động và tích cực của Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu và khẳng định quan điểm của Việt Nam về việc ứng phó với biến đổi khí hậu theo tinh thần Công ước khí hậu, Nghị định thư Kyoto. Bài phát biểu của Trưởng đoàn Việt Nam đã nhận được sự chú ý và ủng hộ của nhiều đại biểu quốc tế.
Trong thời gian COP18, CMP8, Đoàn Việt Nam đã phối hợp với Bộ Môi trường Nhật Bản và các cơ quan, tổ chức liên quan của Nhật Bản (JICA, OECC, GEC) tổ chức thành công Hội thảo bên lề với chủ đề “Xây dựng chính sách, cơ chế tài chính và chuyển giao công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu” vào ngày 26 tháng 11 năm 2012. Tại Hội thảo, Đoàn Việt Nam đã giới thiệu một số thông tin chính liên quan đến các chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới); việc hợp tác nghiên cứu, phát triển thí điểm NAMAs trong các lĩnh vực chất thải, năng lượng và giao thông vận tải. Phía Nhật Bản cũng có các báo cáo liên quan đến phương pháp luận NAMAs và vấn đề MRV cũng như hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua các Cơ chế tín dụng song phương dự kiến sẽ triển khai tại một số nước đang phát triển trong thời gian tới. Hội thảo bên lề đã thu hút sự tham gia của 120 đại biểu quốc tế. Đây là một trong những sự kiện bên lề được các đại biểu quốc tế đánh giá có ý nghĩa và thành công nhất trong ngày khai mạc COP18 và CMP8. Thông tin và hình ảnh về Hội thảo bên lề này đã được đăng tải trên một số bản tin quốc tế.
Trong thời gian dự Hội nghị, Đoàn Việt Nam đã tham dự nhiều hội thảo bên lề với các chủ đề về năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải (trong đó có vận tải hàng không và hàng hải), sản xuất công nghiệp, tài chính, tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu tại các nước đang phát triển; Diễn đàn Cơ quan đầu mối quốc gia về Cơ chế phát triển sạch (DNA); Diễn đàn về hợp tác xây dựng NAMAs của các nước thuộc Cộng đồng Pháp ngữ; Diễn đàn kinh tế thế giới về động lực thay đổi: thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Bên lề Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Môi trường Na Uy đã ký Tuyên bố chung về hợp tác giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các-bon rừng (REDD+).
Để tiếp tục củng cố và phát triển hợp tác đa phương và song phương trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu, Đoàn Việt Nam đã có các cuộc gặp, làm việc với (1) Bộ trưởng Bộ Môi trường Na Uy; (2) Thứ trưởng phụ trách vấn đề môi trường toàn cầu, Bộ Môi trường Nhật Bản; (3) Đại sứ Nhật Bản tại COP 18; (4) Đại sứ Thụy Điển; (5) Giám đốc Chương trình tài trợ nhỏ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (SGP/GEF), đại diện Cơ quan Phát triển Pháp (AFD); (6) đại diện Cơ quan Khí tượng Thụy Sĩ; (7) đại diện Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO); (8) Trưởng đoàn Nhật Bản, các Trưởng đoàn In-đô-nê-xi-a, Singapore, Phi-lip-pin và Căm-pu-chia; (9) Đoàn Nhật Bản tại Văn phòng Đoàn Nhật Bản về chuẩn bị  hợp tác triển khai Cơ chế tín chỉ kết hợp (Joint Crediting Mechanism-JCM, tên gọi trước đây là Cơ chế tín chỉ bù trừ các-bon song phương - Bilateral Offset Credit Mechanism-BOCM) trong thời gian tới.
Mạnh Hòa-Cục  Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu
SHARE
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Post a Comment