Biển Việt Nam với dải bờ chạy dài trên 3260 km, diện tích trên 1 triệu km2,
hàng năm đem lại nguồn lợi trên 2 triệu tấn trong số hơn 90 triệu tấn
hải sản của thế giới, đồng thời cũng là hệ sinh thái rất đặc thù và được
đánh giá là một trong 16 trung tâm đa dạng sinh học cao của thế giới.
Đây là một điều kiện thuận lợi để nước ta phát triển đa dạng các ngành
kinh tế biển và ven biển trong hơn 50 năm qua. Hiện nay, trong xu thế cả
thế giới đang vươn mạnh ra biển để khai thác tiềm năng sẵn có của đại
dương, việc điều tra nghiên cứu môi trường và tài nguyên sinh vật biển
Đông ngày càng khẳng định những ý nghĩa quan trọng với đất nước trong
giai đoạn mới.
Kết quả nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam
Trải qua ba giai đoạn phát triển (trước
năm 1954, từ năm 1954-1975 và từ năm 1976 đến nay), công tác điều tra,
nghiên cứu biển Việt Nam đã không ngừng gặt hái được những thành quả
đáng kể. Đặc biệt là giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất, tình hình
nghiên cứu biển nói chung và nguồn lợi sinh vật biển nói riêng đã có
những bước tiến khá mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong giai
đoạn này, lực lượng nghiên cứu đã phát triển vượt bậc, nhiều công trình
lớn cấp Nhà nước, cấp ngành liên tục được triển khai, trang thiết bị
nghiên cứu cũng đã được đầu tư nhiều. Đó là tiền đề để các ngành nghiên
cứu về biển Việt Nam thu được những thành quả quan trọng trên mọi phương
diện như nghiên cứu tổng thể hệ sinh thái biển, đánh giá cơ bản tiềm
năng sinh vật biển, ứng dụng công nghệ sinh học bảo vệ tài nguyên biển,
đánh giá nguy cơ đe dọa tài nguyên sinh vật và hủy hoại hệ sinh thái
biển, quy hoạch hệ thống các khu bảo tồn biển…
Nghiên cứu tổng thể về hệ sinh thái biển
đã xây dựng bức tranh có hệ thống về đặc điểm điều kiện tự nhiên của
dải ven biển, cung cấp khá hoàn chỉnh những quy luật cơ bản về vật lý
biển và hóa học biển, phân bố và biến động của các hệ sinh thái cơ bản
biển Việt Nam như hệ sinh thái cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá, rạn san
hô, thảm cỏ biển, bãi triều lầy ven biển… Đây là cơ sở quan trọng cho
việc lập kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, chính trị ngoại giao và an
ninh quốc phòng vùng biển, đặc biệt là kế hoạch phát triển nuôi trồng
thủy sản, du lịch sinh thái và bảo tồn biển ở các tỉnh ven biển Việt
Nam.
Cùng với các nghiên cứu tổng thể về hệ
sinh biển, các nhà khoa học cũng đã có những nghiên cứu cơ bản về tiềm
năng tài nguyên sinh vật biển. Kết quả đáng chú ý là đã xác định được
danh mục gần 12.000 loài sinh vật biển Việt Nam, bao gồm cả động và thực
vật. Các nghiên cứu đã chứng minh nguồn lợi hải sản Việt Nam phong phú
đa dạng bao gồm khoảng trên 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy,
653 loài tảo, 5 loài rùa, 12 loài rắn biển... Trong đó, có một số nhóm
sinh vật biển có giá trị kinh tế quan trọng như cá, tôm, mực… đã được
xác định khu vực phân bố, trữ lượng và khả năng khai thác. Trữ lượng cá
đáy và cá nổi khoảng 3,0-3,5 triệu tấn (chưa kể cá nổi di cư xa, cá sống
ở ven các đảo...), với khả năng khai thác (exploitation potential)
khoảng 1,5 – 1,7 triệu tấn. Bên cạnh đó, nghiên cứu đa dạng hóa về sản
phẩm biển đang là hướng đi rất tích cực, nhằm giảm bớt áp lực lên các
đối tượng khai thác truyền thống. Các loài thân mềm (ngao, nghêu, tu
hài, hàu, vẹm, ốc hương…) đang được coi là đối tượng khai thác, nuôi
trồng chỉ đứng sau cá. Đặc biệt trong một số năm gần đây, các nhà khoa
học Viện KHCN VN đã tìm được nhiều chất có giá trị dược liệu quý từ các
loài hải miên, da gai, san hô, sứa biển… Đây là hướng đi rất tích cực
trong nghiên cứu, sử dụng hợp lý nguồn lợi sinh vật biển. Ngoài ra, việc
thường xuyên nghiên cứu, biên tập Sách Đỏ Việt Nam cũng góp phần đáng
kể vào việc bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển.
|
Hình ảnh một số loài sinh vật biển Việt Nam
Đặc biệt, nghiên cứu ứng dụng công nghệ
sinh học biển bảo vệ tài nguyên biển đã đạt được những kết quả khả quan.
Một số biện pháp sử dụng các loài sinh vật có ích để bảo vệ môi trường
cho từng khu vực hẹp đã bắt đầu có hiệu lực. Trong đó, có thể kể đến
biện pháp nuôi cấy các chủng vi sinh vật phân hủy dầu, làm sạch dầu trên
các bãi triều của Viện Công nghệ sinh học, nuôi ghép các loài hai mảnh
vỏ (vẹm xanh) với nuôi tôm làm giảm bớt ô nhiễm môi trường do thức ăn dư
thừa của tôm. Các chế phẩm vi sinh làm sạch môi trường cho các ao, đầm
nuôi thủy sản cũng đã trở thành sản phẩm thương mại của Việt Nam.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng thường
xuyên chú ý đến việc đánh giá mức suy giảm nguồn lợi ven bờ và các nguy
cơ đe dọa đến tài nguyên sinh vật, hủy hoại các hệ sinh thái biển Việt
Nam như sức ép dân số, các hoạt động gây ô nhiễm môi trường, hiện tượng
biến đổi khí hậu, tình trạng sử dụng các phương tiện khai thác mang tính
hủy diệt, đánh bắt bằng ngư cụ có kích thước mắt lưới quá nhỏ, khai
thác vào các bãi cá đẻ hay các vùng sinh trưởng của cá con…
Trên cơ sở điều tra, nghiên cứu, các nhà
khoa học đã đưa ra những đề xuất nhằm bảo tồn đa dạng nguồn tài nguyên
biển. Năm 2010 Chính phủ đã chính thức phê duyệt mười sáu khu bảo tồn
biển là Đảo Trần, Đảo Cô Tô, Đảo Cát Bà, Đảo Bạch Long Vỹ, Hòn Mê, Đảo
Cồn Cỏ, Hải Vân - Sơn Trà, Cù Lao Chàm, Đảo Lý Sơn, Nam Yết, Vịnh Nha
Trang, Núi Chúa, Hòn Cau, Đảo Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc. Đây là minh
chứng cho sự kết hợp giữa khoa học và quản lý đã mang lại những lợi ích
thiết thực.
Định hướng nghiên cứu sinh vật biển Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn 2020
Các kết quả nghiên cứu hệ sinh thái, tài
nguyên sinh vật biển trong thời gian qua đã và đang khẳng định ý nghĩa
khoa học và thực tiễn. Đó là cơ sở khoa học phục vụ cho việc hoạch định
khai thác, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch sinh thái, bảo tồn
biển và an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh hải Việt Nam. Tuy
nhiên, công tác nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển trong nhiều năm qua
cũng còn một số tồn tại cần khắc phục. Định hướng nghiên cứu mới chỉ tập
trung vào vùng nước ven bờ (coastal areas) mà ít có những nghiên cứu
vùng biển xa bờ (offshore areas), nguồn lợi ven bờ bị khai thác quá mức,
nguồn lợi cá được nghiên cứu nhiều hơn các loại hải sản khác, cá tầng
đáy được nghiên cứu nhiều hơn cá tầng trên (nhất là vùng biển Vịnh Bắc
Bộ và Đông Tây Nam Bộ). Ngoài ra, phần lớn các nghiên cứu mang tính cục
bộ cho từng khu vực và chưa đồng bộ. Điều đó dẫn đến việc quy hoạch vùng
nuôi, mùa vụ cũng như việc lý giải các nguyên nhân, mức độ tổn thương
hệ sinh thái, mức độ suy giảm nguồn lợi và đề xuất các biện pháp phục
hồi còn nhiều hạn chế.
Với mục tiêu phấn đấu trong 5 năm tới có
thể vươn ra nghiên cứu đại dương, 10 năm tới đạt trình độ nghiên cứu
sinh học biển ngang tầm khu vực và có những chuyên ngành ngang tầm các
nước tiên tiến, các nhà khoa học Việt Nam hiện đang nỗ lực tăng cường
đội ngũ cán bộ, mở rộng hợp tác quốc tế, đầu tư trang thiết bị, tập
trung hướng đến nghiên cứu toàn diện các vùng biển lớn. Trong đó, công
tác điều tra, nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển phải đi trước một
bước. Quan trọng nhất là đánh giá đầy đủ, chính xác tổng trữ lượng nguồn
lợi sinh vật biển Việt Nam, chú trọng đến nguồn lợi sinh vật vùng biển
xa bờ như Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ, Vịnh Bắc Bộ… và chú trọng bổ sung
nhằm đa dạng hóa nguồn tài nguyên biển như tài nguyên sinh vật có giá
trị dược liệu, tài nguyên sinh vật ở các vùng biển sâu, tài nguyên sinh
vật có giá trị kinh tế cao như thân mềm, giáp xác, da gai… Đó là cơ sở
để các nhà khoa học nghiên cứu xây dựng bản đồ ngư trường đánh bắt thủy
sản theo mùa và quy hoạch, quản lý tài nguyên biển theo vùng lãnh thổ,
phục vụ hoạch định chiến lược khai thác tài nguyên biển. Đồng thời, việc
đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học vào bảo vệ tài nguyên
và môi trường biển như xây dựng các khu bảo tồn biển, các mô hình phục
hồi các hệ sinh thái, mô hình bảo vệ nguồn lợi… cũng là một việc làm
quan trọng cần quan tâm thỏa đáng.
Một số hoạt động nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển Việt Nam
Trên cơ sở các thành quả đã đạt được
trong hơn 50 năm qua, ngành nghiên cứu tài nguyên môi trường biển hiện
đang tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành liên quan đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm khắc phục những hạn chế,
thiết thực góp phần vào việc khai thác, sử dụng hợp lý, bảo tồn nguồn
tài nguyên thiên nhiên quý giá do vị trí địa chính trị, địa kinh tế vô
cùng quan trọng của biển Đông mang lại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững kinh tế xã hội đất nước.
Nguồn tin: PGS.TS. Đỗ Công Thung, NCVCC
Viện Tài nguyên và Môi trường biển
Theo Bích Diệp-http://vast.ac.vn
Viện Tài nguyên và Môi trường biển
Theo Bích Diệp-http://vast.ac.vn
0 nhận xét:
Post a Comment